Thứ Ba, 20 tháng 6, 2017

Osho - Tự truyện (Cuộc đời Luận sư Osho) - Chương 4


CHƯƠNG 4. CHỨNG NGỘ - CẮT ĐỨT VỚI QUÁ KHỨ




Có một câu chuyện Phật giáo thật hay:
Tại một thị trấn nọ, bỗng xuất hiện một người phụ nữ rất trẻ đẹp, như xuống từ trên mây. Không ai biết nàng đến từ đâu; cũng không ai biết trú xứ của nàng. Nhưng nàng quá đẹp, đẹp mê hồn, đến mức thậm chí không ai nghĩ đến việc nàng từ đâu đến. Người ta tụ họp lại, toàn bộ thị trấn – và tất cả những chàng trai, hầu như ba trăm chàng trai, đều muốn kết hôn với nàng.
Người phụ nữ nói, "Xem kìa, em chỉ có một, mà các anh lại có đến ba trăm. Em chỉ có thể kết hôn với một người thôi; do vậy, các anh hãy làm một điều. Ngày mai em sẽ lại đến; em cho các anh 24 tiếng đồng hồ. Nếu một trong các anh có thể tụng thuộc lòng Kinh Pháp Hoa của đức Phật, em sẽ kết hôn với người ấy."
Tất cả những chàng trai trẻ lao vội về nhà; họ không ăn, không ngủ, họ tụng kinh Pháp Hoa suốt đêm, họ cố nhét nó vào đầu. Mười người thành công. Sáng hôm sau, người phụ nữ đến, và mười người này tình nguyện tụng lên. Người phụ nữ lắng nghe. Họ đã thành công.
Nàng nói, "Tốt lắm, nhưng em chỉ có một. Làm thế nào có thể cưới mười chàng? Em lại cho các anh 24 tiếng đồng hồ. Người nào có thể giải thích ý nghĩa của Kinh Pháp Hoa, em sẽ cưới người ấy. Do vậy, các anh hãy cố hiểu – bởi vì việc đọc tụng là một điều đơn giản, các anh chỉ đang máy móc lặp lại một cái gì đó, và các anh không hiểu ý nghĩa của nó."
Chẳng có chút thời gian nào cả – chỉ một đêm!– mà Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh dài. Nhưng khi bạn đã si mê, bạn có thể làm bất cứ cái gì. Họ chạy vội về nhà, họ cố hết sức. Ngày kế đó, ba người xuất hiện. Họ đã hiểu ý nghĩa của kinh.
Và người phụ nữ nói, "Lại vẫn còn rắc rối. Số lượng đã giảm xuống, nhưng vẫn còn rắc rối. Từ 300 giảm xuống tới 3, là một cải thiện lớn, nhưng một lần nữa, em không thể cưới cả ba chàng – em chỉ có một. Do vậy, thêm 24 tiếng đồng hồ nữa … Người nào không những hiểu nó, mà còn nếm được hương vị của nó nữa, thì em sẽ cưới người đó. Bởi vậy, trong 24 giờ, hãy cố nếm cái ý nghĩa của nó. Các anh đang giải thích, nhưng sự giải thích này là chỉ có tính chất trí năng. Em muốn thấy một ít hương vị thiền, một ít hương thơm. Em muốn thấy rằng, hoa sen đã đi vào sự hiện diện của các anh, rằng các anh đã trở thành một cái gì đó của hoa sen. Em muốn ngửi hương thơm của nó. Do vậy, ngày mai em sẽ lại đến."
Chỉ có một người đến, và chắc chắn là anh ta đã thành công. Người phụ nữ đưa chàng trai tới nhà nàng ở bên ngoài thị trấn. Chàng trai chưa bao giờ thấy ngôi nhà đó; nó rất đẹp, gần như là một cõi mơ. Và song thân của người phụ nữ đang đứng ở cổng. Họ tiếp chàng trai và nói, "Chúng tôi rất vui sướng."
Người phụ nữ đi vào bên trong, và chàng trai chuyện vãn một chút với song thân cô gái. Rồi họ nói, "Hãy vào đi. Con gái chúng ta hẳn đang đợi anh. Đây là phòng của nó." Họ chỉ đường cho chàng. Chàng trai bước đi, chàng mở cánh cửa, nhưng không có ai ở đó. Đó là một căn phòng trống rỗng. Nhưng có một cửa lớn mở ra khu vườn. Do vậy, chàng đưa mắt nhìn – có thể nàng đã đi vào trong khu vườn. Vâng, chắc hẳn nàng đã đi qua đó, bởi vì trên lối đi có những dấu chân. Chàng bước đi gần một dặm. Khu vườn chấm dứt và bây giờ chàng đang đứng trên bờ của một con sông đẹp – nhưng người phụ nữ không có ở đó. Những dấu chân cũng đã biến mất. Chỉ có hai chiếc hài, những chiếc kim hài của người phụ nữ.
Bây giờ chàng bối rối. Cái gì đã xảy ra? Chàng nhìn lại đằng sau – không có khu vườn nào, ngôi nhà nào, cũng không còn song thân của cô gái. Tất cả đã biến mất. Chàng lại nhìn lần nữa. Những chiếc hài cũng đã biến mất, con sông đã biến mất. Tất cả chỉ có sự trống rỗng – và một tiếng cười lớn vang lên.
Và chàng cũng cười to. Chàng đã kết hôn.
Đây là một câu chuyện Phật giáo đẹp đẽ. Chàng kết hôn với sự trống rỗng, kết hôn với hư vô. Đây là cuộc hôn nhân mà tất cả những vị thánh đều đã và đang tìm kiếm. Đây là khoảnh khắc khi mà bạn trở thành "cô dâu của Christ" hay một gopi của Krishna. Nhưng mọi sự biến mất – lối đi, khu vườn, ngôi nhà, người phụ nữ, ngay cả những dấu chân. Mọi sự biến mất. Chỉ có một tiếng cười, một tiếng cười cất lên từ chính cái của vũ trụ.
Ngay từ thời thơ ấu, tôi đã yêu sự im lặng. Bất cứ khi nào có thể được, tôi thường chỉ ngồi im lặng. Đương nhiên, gia đình tôi có thói quen nghĩ rằng tôi sẽ trở thành một "kẻ vô tích sự" – và họ có lý! Chắc chắn tôi đã chứng tỏ mình là vô tích sự, nhưng tôi không hối tiếc điều đó.
Cái vô tích sự của tôi đã đi tới chỗ hiển nhiên: đôi khi, khi tôi đang ngồi im, mẹ tôi thường đến và nói một cái gì đó như, "Có vẻ như không có ai trong nhà. Mẹ cần một ai đó đi chợ để mua một ít rau ráng." Tôi đang ngồi đằng trước bà, và tôi thường nói, "Nếu con thấy một ai, con sẽ bảo họ."
Mọi người đều chấp nhận rằng sự hiện diện của tôi không có nghĩa gì cả; tôi có mặt ở đó hay không, điều ấy cũng không quan trọng gì cả. Một, hai lần họ thử nghiệm, và họ phát hiện ra rằng, "Tốt hơn là nên loại nó ra, và đừng để tâm đến nó nữa." Vào buổi sáng, họ thường sai tôi đi mua rau. Và buổi chiều, tôi thường nói, "Con đã quên, không nhớ con được sai đi mua cái gì, và bây giờ thì chợ đã đóng cửa…"
Mẹ tôi nói, "Đó không phải là lỗi của con, mà là lỗi của chúng ta. Suốt ngày chúng ta chờ đợi, nhưng trước hết, lẽ ra chúng ta không nên nhờ con. Từ sáng tới giờ con ở đâu?"
Tôi nói, "Khi con ra khỏi nhà, ngay gần nhà có một cây bồ đề rất đẹp… " – loại cây mà dưới đó Phật Gautama đã chứng ngộ. Cây đó có tên "bồ đề" là vì Phật Gautama. Trước Phật Gautama, người ta không biết nó thường được gọi là cây gì; hẳn nó cũng có tên, nhưng sau khi Phật Gautama ngồi ở đó, nó mang tên “bồ đề”.
Có một cây bồ đề đẹp, và nó quá cám dỗ với tôi. Bên dưới nó thường rất im lặng, rất mát mẻ, không ai quấy rầy tôi, đến nỗi tôi không thể nào đi qua nó mà không ngồi dưới nó một thời gian nào đó. Và những khoảnh khắc bình an đó, tôi nghĩ, đôi khi trải dài ra suốt ngày.
Sau chỉ một ít thất vọng, họ nghĩ, "Tốt hơn, là đừng quấy rầy nó." Và tôi vô cùng hạnh phúc vì họ chấp nhận cái sự kiện rằng tôi hầu như không hiện hữu. Nó cho tôi sự tự do to lớn. Không ai chờ đợi bất cứ cái gì ở tôi. Khi không ai mong đợi cái gì ở bạn, bạn rơi vào trong một sự yên lặng. Thế giới đã chấp nhận bạn; bây giờ không ai mong đợi gì ở bạn.
Một đôi khi, khi tôi về nhà trễ, họ thường tìm kiếm tôi tại hai chỗ. Một là nhà Nani tôi, và chỗ kia, là cây bồ đề – và bởi vì họ bắt đầu tìm kiếm tôi dưới cây bồ đề, tôi bắt đầu leo lên cây và ngồi trên đỉnh của nó. Họ thường đến, thường nhìn xung quanh và nói, "Hình như nó không có ở đây."
Và chính tôi thường gật đầu và nói, "Vâng, đúng rồi. Con không có ở đây."
Kinh nghiệm đầu tiên của tôi về việc hồn ra khỏi xác, là khi bị rơi từ trên cây xuống. Tôi thường có thói quen tọa thiền ngay đằng sau trường đại học, nơi đó có một cái gò đẹp và ba cây cao, rất yên lặng, và không ai đến đó. Tôi thường ngồi trên một trong ba cây này và thiền định. Một hôm bỗng nhiên tôi thấy rằng tôi đang ngồi trên cây, và đồng thời, thân xác tôi đã rơi xuống và tôi đang nằm trên đất. Trong một khoảnh khắc, tôi không biết làm sao để nhập xác trở lại. Chỉ do ngẫu nhiên, một người phụ nữ thường mang sữa vào trường đại học, từ làng gần đó, đã thấy tôi đang rơi xuống, nên bà đến sát bên. Chắc hẳn bà đã nghe nói rằng, trong những tình huống khi mà cái "cơ thể bên trong" lìa khỏi cơ thể bên ngoài, nếu bạn cọ xát khoảng giữa hai mắt – con mắt thứ ba, đó là cánh cửa – thì cái thần thức đã thóat ra, sẽ có thể nhập vào.
Do vậy, bà chà xát vào con mắt thứ ba của tôi. Tôi có thể thấy bà đang chà xát lên trán tôi. Khoảnh khắc kế tiếp, tôi mở mắt ra, cám ơn bà, và hỏi bà, làm sao bà biết làm như vậy.
Bà chỉ đơn giản nghe nói về nó. Đó là một làng bán khai, nhưng bà đã nghe cái ý tưởng truyền thống rằng, con mắt thứ ba là nơi mà thần thức thoát ra, và cũng là nơi mà nó có thể nhập xác trở lại.
Theo như tôi nhớ được, thì tôi đã từng tìm kiếm cánh cửa dẫn đến sự chứng ngộ – ngay từ trong thời thơ ấu của tôi. Chắc hẳn tôi đã mang cái ý tưởng đó từ kiếp trước của mình, bởi vì tôi không nhớ có một ngày (riêng lẻ) nào – trong tuổi thơ của tôi trong kiếp này – mà tôi lại không đang tìm kiếm nó. Một cách tự nhiên, mọi người đều nghĩ rằng tôi đã phát rồ. Tôi không bao giờ chơi với bất cứ đứa trẻ nào. Tôi không bao giờ có thể tìm thấy cách nào để truyền thông với lũ trẻ cùng trang lứa. Đối với tôi, chúng có vẻ ngu xuẩn, làm mọi loại điều ngu ngốc. Tôi không bao giờ gia nhập đội bóng nào: bóng đá, bóng chuyền, bóng hockey. Dĩ nhiên, tất cả họ đều nghĩ rằng tôi đã phát rồ. Về riêng phần tôi, khi tôi lớn lên, tôi bắt đầu thấy rằng toàn bộ thế giới mới thật là điên rồ.
Năm cuối cùng (của những chu kỳ 7 năm) – khi tôi 21 tuổi – là một thời gian của một cơn suy sụp thần kinh và đột phá. Một cách tự nhiên, những ai thương yêu tôi – gia đình tôi, bạn bè tôi, những giáo sư của tôi – có thể hiểu một chút về cái gì đang diễn ra trong tôi. Tại sao tôi quá khác biệt với những đứa trẻ khác, tại sao tôi thường cứ mãi ngồi hằng giờ – với đôi mắt nhắm; tại sao tôi ngồi trên bờ sông và cứ nhìn lên bầu trời hằng giờ, đôi khi suốt đêm. Đương nhiên, những người không thể hiểu những điều như thế – và tôi cũng không mong đợi họ hiểu – đều nghĩ rằng tôi điên.
Trong gia đình tôi, tôi đã trở nên gần như vắng mặt. Chẳng bao lâu, họ thôi không nhờ tôi làm bất cứ cái gì, và dần dần, họ bắt đầu cảm thấy như thể là tôi không có mặt ở đó. Và tôi ưa thích điều đó, cái cách mà tôi đã trở thành một "hư vô", “một-kẻ-vô-tích-sự, một sự vắng mặt.
Cái năm đó thật là ghê gớm. Tôi bị bao vây bởi hư vô, sự trống rỗng. Tôi đã mất hết mọi liên hệ với thế giới. Nếu ai đó nhắc tôi đi tắm, tôi thường tắm hằng giờ. Rồi, họ phải gõ cửa: "Nào, hãy ra khỏi phòng tắm. Con đã tắm đủ cho một tháng! Ra thôi!" Nếu họ nhắc tôi ăn, thì tôi ăn; nếu không, tôi sẽ không ăn trong nhiều ngày. Không phải là tôi đang nhịn ăn – tôi không có ý niệm nào về việc ăn hay nhịn ăn. Toàn bộ mối quan tâm của tôi, là đi mỗi lúc một sâu hơn vào trong chính mình! Và cánh cửa thì quá nhiều từ tính, sức hút quá mãnh liệt – giống như cái mà những nhà vật lý gọi là những lỗ đen.
Người ta nói có tồn tại những lỗ đen.[22] Nếu một ngôi sao tình cờ có một lỗ đen, thì nó bị hút vào đó; không có cách nào cưỡng lại sức hút đó, và đi vào trong lỗ đen là đi vào trong sự hủy diệt. Chúng ta không biết cái gì xảy ra ở phía bên kia. Ý kiến của tôi – mà nhà vật lý nào đó phải tìm chứng cớ – là: nếu có một lỗ đen ở phía bên này, thì sẽ có một lỗ trắng ở phía bên kia. Cái lỗ không thể chỉ có một bên; nó là một đường hầm. Tôi đã trải nghiệm nó trong chính mình. Có lẽ trên một phạm vi lớn hơn, cái tương tự xảy ra trong vũ trụ. Ngôi sao chết đi; trong chừng mực mà chúng ta có thể thấy, nó biến đi. Nhưng trong mọi khoảnh khắc, những ngôi sao mới được ra đời. Từ nơi đâu? Cái "tử cung" của nó ở đâu? Đó chỉ là số học đơn giản, rằng cái lỗ đen chỉ là một cái "tử cung" – ngôi sao cũ biến đi vào nó và ngôi sao mới ra đời.
Điều này, tôi đã trải nghiệm trong chính mình – tôi không phải là một nhà vật lý. Cái năm với sức hút ghê gớm đó đưa tôi mỗi lúc một xa hơn khỏi mọi người, quá xa, đến nỗi, tôi thường không nhận ra mẹ tôi, tôi cũng không nhận ra cha tôi; có những lúc tôi quên luôn cái tên của chính mình. Tôi đã cố hết sức, nhưng không có cách nào khám phá ra tên tôi vốn là gì. Tất nhiên, trong cái năm đó, với mọi người khác, thì tôi đã phát điên. Nhưng với riêng tôi, thì trạng thái điên ấy trở thành thiền định, và cái đỉnh điểm của trạng thái điên ấy đã mở cánh cửa.
Tôi được đưa tới một vaidya, một y sĩ ayurvedic. Thật ra, tôi đã được đưa tới nhiều bác sĩ và y sĩ, nhưng chỉ có một vaidya nói với cha tôi, "Nó không bệnh. Đừng lãng phí thời gian của ông." Dĩ nhiên, họ đang lôi xệch tôi từ nơi này sang nơi nọ. Và nhiều người thường cho tôi những loại thuốc và tôi thường nói với cha tôi, "Tại sao mọi người lo lắng? Con hoàn toàn không sao cả."
Nhưng không ai tin những gì tôi nói. Họ thường nói, "Con im đi. Con uống thuốc đi, nó có hại gì đâu nào?" Nên tôi thường uống đủ loại thuốc.
Chỉ có một vaidya duy nhất là một người có tuệ giác – tên ông là Pundit Bhaghirath Prasad. Bây giờ cụ già đó đã qua đời, nhưng ông là một người có tuệ giác hiếm hoi. Ông nhìn tôi và nói, "Nó không bệnh." Và ông bắt đầu khóc to lên và nói, "Tôi đã từng tìm kiếm trạng thái này, chính tôi. Nó may mắn. Trong kiếp này, tôi đã bỏ lỡ trạng thái này. Đừng đưa nó tới ai cả. Nó đang về tới nhà." Và ông khóc những giọt nước mắt hạnh phúc.
Ông là một "kẻ tìm kiếm". Ông đã từng tìm kiếm khắp đất nước từ đầu này đến đầu kia. Suốt đời ông là một cuộc tìm kiếm và một cuộc thăm dò. Ông đã có một ý niệm nào đó về cái chân lý mà ông đang tìm kiếm. Ông trở thành người bảo vệ của tôi – bảo vệ tôi chống lại những bác sĩ và y sĩ khác. Ông nói với cha tôi, "Ông cứ để nó cho tôi. Tôi sẽ lo liệu." Ông không bao giờ cho tôi bất cứ thuốc men nào. Khi cha tôi năn nỉ, ông chỉ cho tôi những viên thuốc đường và bảo tôi, "Đây là những viên thuốc đường. Chỉ để họ yên tâm là cháu đã uống chúng. Chúng sẽ không có hại, nhưng cũng không trợ giúp. Thật ra, không thể có được sự giúp đỡ nào."
Khi bạn bắt đầu bước vào thế giới của "vô trí", nó trông giống như trạng thái điên – "đêm tối của linh hồn," đêm điên của linh hồn. Tất cả mọi tôn giáo đều đã ghi nhận sự kiện đó; do vậy, tất cả mọi tôn giáo đều nhấn mạnh việc tìm kiếm một vị thầy trước khi bạn khởi sự bước vào thế giới của "vô trí" – bởi vì ông sẽ ở đó để giúp bạn, nâng đỡ bạn. Bạn sẽ tan ra từng mảnh, nhưng ông sẽ ở đó để động viên bạn, cho bạn hy vọng. Ông sẽ ở đó để thuyết minh cái mới lạ cho bạn. Đây là cái ý nghĩa của một vị thầy: minh giải cái không thể minh giải được, chỉ ra cái không thể nói ra được, diễn đạt cái không thể diễn đạt. Ông sẽ có mặt ở đó; ông sẽ chế tác ra những phương pháp và những cách thức để giữ cho bạn tiếp tục trên lối đi – nếu không, có thể bạn sẽ chạy trốn khỏi nó.
Và hãy nhớ, không có cách nào để trốn thoát cả. Nếu bạn khởi sự trốn chạy, bạn chỉ đơn giản trở nên hung tợn, phá hoại. Những người Sufi gọi những người đó là mastas. Tại Ấn Độ, họ được biết đến như là những paramahansas điên. Bạn không thể quay trở lại bởi vì nó không còn ở đó, và bạn không thể tiến về phía trước, bởi vì tất cả đều tối đen. Bạn bị kẹt. Đó là lý do tại sao Phật nói, "May mắn thay cho ai đã tìm ra một vị thầy."
Chính tôi đang làm việc mà không có một vị thầy. Tôi đã tìm kiếm và tôi đã không thể tìm ra một vị nào. Không phải là bởi vì tôi đã không tìm kiếm; tôi đã tìm kiếm lâu rồi, nhưng tôi không thể tìm thấy một vị thầy nào. Hãn hữu lắm mới tìm thấy một vị thầy, một hữu thể mà đã trở thành một "vô-thể", hiếm khi tìm thấy một sự hiện diện mà gần như là một sự vắng mặt. Hiếm khi tìm thấy một người mà chính người đó là một cánh cửa dẫn vào "cái thiêng liêng", mà nó sẽ không cản trở bạn, xuyên qua đó bạn có thể băng qua. Rất khó khăn.
Những người Sikh gọi ngôi đền của họ là gurudwara, cánh cửa của vị thầy. Đó chính xác là cái mà vị thầy phải là – cánh cửa. Jesus lặp đi lặp lại, "Ta là cánh cửa, ta là con đường, ta là chân lý. Hãy đến và theo ta, hãy đi xuyên qua ta. Và nếu các ngươi không đi xuyên qua ta, thì các ngươi sẽ không thể nào đạt tới (chân lý)."
Vâng, đôi khi một người phải "tự thân vận động" mà không có một vị thầy. Nếu không kiếm được một vị thầy, thì người ta phải làm lấy một mình, nhưng khi đó, cuộc hành trình sẽ rất bấp bênh, nguy hiểm.
Suốt cái năm đó, tôi đã ở trong một trạng thái (mà) gần như không thể biết là cái gì đang xảy ra. Trong một năm, liên tục, thậm chí khó mà giữ cho mình tồn tại. Chỉ đơn giản giữ cho chính mình tồn tại, đã là một điều rất khó khăn – bởi vì mọi sự thèm ăn đều biến mất. Nhiều ngày trôi qua, và tôi thường không cảm thấy đói, cũng chẳng thấy khát. Tôi phải tự cưỡng bức mình ăn, uống. Cơ thể quá "không tồn tại", đến nỗi tôi đã phải tự làm đau mình, để cảm thấy rằng tôi vẫn còn ở trong thân thể. Tôi phải đập đầu vào tường, để xem (liệu) cái đầu có còn đó hay không. Chỉ đến lúc nó đau, thì tôi mới ở trong thân thể được một chút.
Mọi buổi sáng và mọi buổi chiều tối, tôi thường chạy bộ từ 5 đến 8 dặm. Người ta thường nghĩ rằng tôi điên. Tại sao tôi lại chạy quá nhiều như vậy? 16 dặm một ngày! Chỉ để cảm thấy rằng tôi vẫn còn hiện hữu, để không mất liên lạc với chính mình – chỉ để đợi cho đến khi đôi mắt tôi trở nên hòa nhịp với cái mới đang diễn ra.
Và tôi đã phải giữ cho mình gần gũi với chính mình. Tôi thường không nói chuyện với bất cứ ai, bởi vì mọi sự đã trở nên quá rời rạc, đến nỗi thậm chí hình thành một câu cũng khó khăn. Giữa một câu, tôi thường quên là tôi đang nói cái gì. Giữa đường, tôi thường quên là tôi đang đi đâu. Do vậy, tôi thường phải quay trở lại. Tôi thường đọc một cuốn sách – tôi thường đọc 50 trang và rồi bỗng tự hỏi, "Mình đang đọc cái gì thế? Mình không nhớ chút nào cả." Tình huống của tôi giống như cái tình huống sau đây:
Cánh cửa lớn phòng mạch của nhà tâm liệu pháp mở tung, và một người đàn ông chạy vụt vào, "Bác sĩ ơi!" ông ta kêu lên, "Ông phải giúp tôi. Tôi chắc rằng tôi đang mất trí. Tôi không thể nhớ cái gì cả – cái đã xảy ra cách đây một năm, hay thậm chí cái mới xảy ra hôm qua. Chắc hẳn tôi đang phát điên!"
"Hừm …" ông bác sĩ trầm ngâm. "Lần đầu tiên anh ý thức về vấn đề này là khi nào?"
Người đàn ông nom có vẻ lúng túng. "Vấn đề gì vậy?"
Đây chính là tình huống của tôi! Thậm chí để hoàn tất một câu nói, cũng đã là khó. Tôi phải tự nhốt mình trong phòng. Tôi cẩn thận tự nhắc nhở mình, là đừng nói, đừng nói cái gì cả, bởi vì nói một cái gì, là tự phô bày cái "điên" của mình. Trong một năm, nó cứ dai dẳng. Tôi thường chỉ nằm trên sàn và nhìn lên trần nhà, đếm từ 1 đến 100, rồi từ 100 đến 1. Chỉ đơn giản còn có khả năng đếm, ít nhất nó cũng là một cái gì đó. Tôi thường quên, cứ thường xuyên như thế. Phải mất một năm, tôi mới có thể tập trung trí óc trở lại, có một viễn ảnh, một định hướng cho tương lai.
Nó xảy ra. Nó là một phép mầu. Nhưng mà nó khó khăn. Không có ai để hỗ trợ tôi, không có ai để nói cho tôi biết là tôi đang đi đâu, và cái gì đang xảy ra. Thật ra, mọi người đều chống lại nó – những thầy giáo của tôi, bạn bè tôi, những người muốn điều tốt cho tôi. Tất cả đều chống lại nó. Nhưng họ không thể làm gì, họ chỉ có thể kết án, họ chỉ có thể hỏi là tôi đang làm cái gì.
Tôi không đang làm cái gì cả! Bây giờ, nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của tôi; nó đang diễn ra. Tôi đã làm một cái gì đó; một cách không hay biết, tôi đã gõ vào cánh cửa, và bây giờ cánh cửa đã mở. Tôi đã từng thiền định trong nhiều năm, chỉ đơn thuần ngồi yên lặng mà không làm gì cả, và chẳng bao lâu, tôi bắt đầu đi vào trong cái khoảng không gian đó, nơi mà bạn là, và bạn không đang làm cái gì cả; bạn chỉ đơn thuần ở đó, một sự hiện diện, một kẻ quan sát.
Bạn thậm chí không phải là một kẻ quan sát, bởi vì bạn không đang quan sát – bạn chỉ đơn thuần là một sự hiện diện. Ngôn từ tỏ ra bất cập, bởi vì bất cứ từ nào được dùng, dường như nó đều diễn tả một "việc làm" nào đó.
Không, tôi không đang làm gì cả. Tôi chỉ nằm, ngồi, và đi bộ – sâu bên dưới, không có "người làm" nào cả. Tôi đã mất tất cả mọi tham vọng; không có niềm ao ước trở thành bất cứ ai, không có ao ước đạt tới cái gì cả. Tôi đơn giản bị ném vào trong chính mình. Tôi là một sự trống rỗng, và sự trống rỗng đưa người ta đến sự điên loạn. Nhưng sự trống rỗng là cánh cửa duy nhất dẫn đến Thượng đế. Điều đó có nghĩa là, những ai mà sẵn sàng chịu điên loạn, mới có thể đạt tới (chân lý), chứ không phải ai khác.
Bạn hỏi tôi, "Cái gì xảy ra khi ông hốt nhiên chứng ngộ?"
Tôi cười to, một tiếng cười ầm ĩ thực sự, vì thấy toàn bộ cái buồn cười của việc cố đạt tới sự chứng ngộ. Toàn bộ sự việc thật là buồn cười, bởi vì ngay từ lúc mới sinh ra, ta đã chứng ngộ rồi, và cố đạt một cái gì mà đã bạn đã có, là điều buồn cười nhất. Nếu bạn đã có nó rồi, thì thành tựu cái gì? Bạn chỉ có thể đạt tới cái mà bạn không có; nhưng cái mà bạn đạt tới đó, nó không phải là những phần nội tại của tồn tại bạn. Mà sự chứng ngộ lại chính là bản chất của bạn.
Tôi đã phấn đấu để đạt tới nó trong nhiều kiếp sống – nó đã là cái đích nhắm duy nhất trong nhiều, nhiều kiếp. Và tôi đã làm tất cả những gì có thể, để đạt tới nó, nhưng tôi đã luôn luôn thất bại. Tất yếu phải thế – bởi vì nó phải là một "thành tựu". Nó là bản chất của bạn, cho nên, không thể gọi nó là một "thành tựu". Bạn không thể biến nó thành một tham vọng.
Tâm trí thì đầy tham vọng – tham vọng có tiền bạc, quyền lực, uy tín. Và rồi một hôm, khi nó trở nên chán ngấy với những hoạt động hướng ngoại, nó trở nên tham vọng được chứng ngộ, được giải thóat, đạt tới niết bàn, Thượng đế. Nhưng, cùng một tham vọng đã trở lại; chỉ có cái đối tượng là thay đổi. Ban đầu, cái đối tượng là ở bên ngoài, bây giờ, đối tượng là ở bên trong. Nhưng thái độ của bạn, cái cách tiếp cận của bạn thì chưa thay đổi; bạn vẫn là cùng một con người, trong cùng một cái vết xe đổ, trong cùng một cái lề thói.
"Cái ngày tôi hốt nhiên chứng ngộ" chỉ đơn giản có nghĩa là, cái ngày mà tôi nhận thức rằng, không có cái gì để thành tựu cả, không có nơi nào để đi, không có gì phải được làm. Chúng ta đã có sẵn cái thiêng liêng, và chúng ta đã hoàn hảo rồi – như chúng ta đang là. Không có sự cải thiện nào được cần đến, không cần sự cải thiện nào cả. Thượng đế không bao giờ sáng tạo ra một người nào bất toàn. Ngay cả nếu bạn tình cờ gặp một người bất toàn, bạn sẽ thấy sự bất toàn của anh ta là hoàn hảo. Thượng đế không bao giờ sáng tạo một sự thể bất toàn.
Tôi đã nghe nói về một vị đạo sư Zen, Bokuju, ông đang nói sự thật này cho các đệ tử của mình, rằng tất cả đều hoàn hảo. Một người đứng lên – một kẻ gù lưng, rất già – và ông ta nói, "Còn về con thì sao? Con là một kẻ gù lưng. Thầy nói gì về con ?" Bokuju nói, "Ta chưa bao giờ thấy một người hoàn hảo như thế trong đời ta."
Khi tôi nói, "cái ngày tôi chứng ngộ", tôi đang dùng ngôn ngữ sai – bởi vì không có ngôn ngữ nào khác, bởi vì ngôn ngữ của chúng ta được sáng tạo bởi chúng ta. Nó gồm có những từ như "sự thành tựu", "sự cải thiện", "sự tiến bộ", "sự tiến hóa". Ngôn ngữ của chúng ta không được sáng tạo ra bởi những người chứng ngộ; và thật ra, họ không thể sáng tạo ra ngôn ngữ, cho dẫu họ muốn thế, bởi vì sự chứng ngộ xảy ra trong im lặng. Làm thế nào bạn diễn đạt cái im lặng đó bằng ngôn từ? Và bất luận bạn diễn đạt bằng cách nào, thì những từ ngữ cũng sẽ tiêu diệt một cái gì đó của cái im lặng đó.
Lão Tử đã nói, "Cái khoảnh khắc mà chân lý được nói ra, nó trở nên sai lầm." Không có cách nào truyền thông chân lý cả. Nhưng ngôn ngữ phải được dùng; không có cách nào khác. Cho nên, chúng ta luôn luôn phải dùng ngôn ngữ, nhưng ta phải hiểu được giới hạn của nó – nó luôn bất cập trong việc diễn đạt cái kinh nghiệm đó. Do vậy, tôi nói, "cái ngày mà tôi chứng ngộ." Nhưng nó không phải là một thành tựu, nó cũng không phải là của tôi.
Tôi đã cười to ngày hôm đó, cười vào những nỗ lực ngu xuẩn, buồn cười của tôi để mong đạt tới nó. Ngày đó, tôi cười to, cười vào chính mình, và ngày đó, tôi đã cười vào toàn bộ nhân loại, bởi vì mọi người đều đang cố thành tựu, mọi người đều đang cố đạt tới, mọi người đều đang cố cải thiện.
Trong trường hợp của tôi, nó xảy ra trong một trạng thái buông xả hoàn toàn – nó luôn xảy ra trong trạng thái đó. Tôi đã thử nghiệm mọi thứ. Và rồi, thấy sự vô ích của mọi nỗ lực, tôi đã từ bỏ toàn bộ cái "dự phóng" đó. Tôi quên mọi thứ về nó. Trong 7 ngày, tôi đã sống càng bình thường như có thể.
Những người thường sống gần gũi với tôi, đã rất ngạc nhiên, bởi vì đây là lần đầu tiên mà họ thấy tôi sống một cuộc sống bình thường. Trở về trước, toàn bộ cuộc đời tôi là một kỷ luật hoàn hảo.
Trong 2 năm, tôi đã sống với gia đình đó, và họ đã biết rằng, tôi thường dậy vào lúc 3 giờ sáng, rồi tôi thường đi bộ, hay chạy khoảng 5 – 6 dặm, và rồi tôi thường tắm trên sông. Mọi thứ thì tuyệt đối đều đặn. Ngay cả khi tôi bị sốt, hay bị bệnh, thì cũng không có sự khác biệt nào: mọi thói quen đều vẫn được giữ nguyên, không thay đổi.
Họ đã biết tôi ngồi thiền trong nhiều giờ. Cho tới ngày đó, tôi đã không ăn nhiều thứ. Tôi thường không uống cà phê, trà; tôi có một kỷ luật chặt chẽ về cái gì phải ăn, cái gì không nên ăn. Khi tôi "thư giãn" trong 7 ngày, khi tôi vứt bỏ toàn bộ sự việc và ngày đầu tiên tôi thức dậy vào lúc 9 giờ sáng và uống trà, gia đình tôi hết sức ngạc nhiên. Họ nói, "Cái gì đã xảy ra vậy? Có phải con đã sa sút rồi chăng?" Họ thường xem tôi là một yogi vĩ đại.
Vẫn còn một tấm hình của những ngày đó. Tôi thường dùng chỉ vỏn vẹn một mảnh vải và đó là tất cả. Ban ngày, tôi thường che thân với nó, ban đêm tôi dùng nó như là một tấm chăn để đắp. Tôi ngủ trên tấm chiếu tre. Đó là toàn bộ sự tiện nghi của tôi – cái chăn đó, cái chiếu tre đó. Tôi không có cái gì cả – không có tài sản nào khác. Họ rất ngạc nhiên khi tôi thức dậy lúc 9 giờ sáng. Họ nói, "Một cái gì đó không ổn. Có phải con đang rất bệnh, bệnh trầm trọng?"
Tôi nói, "Không. Con không bệnh trầm trọng. Con đã bệnh trong nhiều năm; bây giờ con hoàn toàn khỏe mạnh. Bây giờ con sẽ thức dậy khi nào giấc ngủ rời bỏ con, và con sẽ đi ngủ khi giấc ngủ đến với con. Con sẽ không còn là một tên nô lệ cho cái đồng hồ. Con sẽ ăn bất cứ cái gì mà cơ thể con cảm thấy muốn ăn, và con sẽ uống bất cứ cái gì con cảm thấy muốn uống." Tôi nói, "Đủ là đủ." Và trong 7 ngày đó, tôi quên toàn bộ cái "dự phóng” và tôi quên nó mãi mãi.
Và ngày thứ bảy, nó xảy ra – nó xảy ra từ không nơi nào cả. Và khi tôi cười to, người làm vườn nghe tiếng cười. Ông thường nghĩ rằng tôi hơi điên một chút, nhưng ông chưa bao giờ nghe tôi cười to trong cách đó. Ông chạy đến. Ông nói, "Có chuyện gì vậy?"
Tôi nói, "Đừng lo lắng. Bác biết là tôi điên – bây giờ tôi đã phát điên hoàn toàn! Tôi đang cười vào chính tôi. Xin đừng phật lòng. Bác hãy đi ngủ tiếp đi."
Trong nhiều kiếp, tôi đã từng làm việc – làm việc trên chính mình, vùng vẫy, làm bất cứ cái gì có thể được làm – và không có gì xảy ra. Bây giờ tôi hiểu tại sao đã không có gì xảy ra. Chính nỗ lực là cái rào chắn, chính cái thang đang ngăn trở, chính sự thôi thúc tìm kiếm, là trở lực. Không phải là người ta có thể đạt tới chân lý mà không tìm kiếm – sự tìm kiếm là cần thiết – nhưng rồi tới một điểm, mà tại đó sự tìm kiếm phải bị vứt bỏ. Con thuyền được cần đến để qua sông, nhưng rồi, đến một khoảnh khắc, mà tại đó bạn phải ra khỏi con thuyền và quên hết mọi thứ về nó, và để nó lại đằng sau. Nỗ lực là cần thiết, không có nỗ lực, thì không có gì khả dĩ. Nhưng chỉ với nỗ lực, thì không có gì khả dĩ.
Ngay trước ngày 21/3/1953, bảy ngày trước đó, tôi ngừng làm việc trên chính mình. Một khoảnh khắc đến, khi mà bạn thấy toàn bộ sự vô ích của nỗ lực. Bạn đã làm tất cả những gì mà bạn có thể làm, và không có gì xảy ra. Bạn đã làm tất cả những gì có thể được, trong giới hạn khả năng của con người. Rồi, bạn có thể làm cái gì khác? Trong sự bất lực hoàn toàn, người ta buông bỏ mọi tìm kiếm. Và cái ngày đó, sự tìm kiếm đã ngừng lại, vào ngày mà tôi không đang tìm kiếm cái gì cả, cái ngày tôi không đang mong đợi một cái gì xảy ra, thì nó bắt đầu xảy ra. Một năng lượng mới khởi lên – từ "không-nơi-nào". Nó không đang đến từ một nguồn nào cả. Nó đang đến từ không nơi nào và mọi nơi. Nó ở trong cây cỏ, trong những tảng đá, bầu trời, mặt trời và không khí – nó ở mọi nơi. Tôi đã từng tìm kiếm quá căng thẳng, và nghĩ rằng nó ở rất xa xôi – nhưng, nó lại quá gần và quá kề sát! Đôi mắt đã trở nên chú mục vào cái xa xăm, chân trời, và chúng đã đánh mất khả năng thấy cái ở sát gần bên.
Cái ngày mà nỗ lực ngừng lại, tôi cũng ngừng lại – bởi vì bạn không thể tồn tại mà không nỗ lực, và bạn không thể tồn tại mà không có ước vọng, và bạn không thể tồn tại mà không phấn đấu. Hiện tượng của cái ego, của cái tôi, thì không phải là một "sự thể" – nó là một quá trình. Nó không phải là một bản thể nằm ở đó bên trong bạn; bạn phải sáng tạo ra nó từng khoảnh khắc. Nó giống như việc đi xe đạp: nếu bạn đạp, thì nó cứ chạy, nếu bạn không đạp, thì nó ngừng. Nó có thể tiếp tục một chút nhờ cái đà, nhưng cái khoảnh khắc mà bạn ngừng đạp, thật ra, cái xe đạp đã ngừng lại. Nó không còn năng lượng, không còn sức để đi một nơi nào cả. Nó sẽ loạng choạng và đổ xuống.
Cái ego hiện hữu bởi vì chúng ta tiếp tục nuôi dưỡng dục vọng, bởi vì chúng ta tiếp tục phấn đấu để đạt một cái gì đó, bởi vì chúng ta tiếp tục nhảy bổ về phía trước chính mình. Đó là chính hiện tượng của cái ego – cái nhảy bổ về phía trước chính bạn, cái nhảy vào trong tương lai, vào trong ngày mai. Cú nhảy vào trong cái "phi hiện hữu" tạo ra cái ego. Bởi vì nó đi ra từ cái phi hiện hữu, nó giống như một ảo ảnh. Nó chỉ bao gồm cái ước vọng, dục vọng và không gì khác. Nó chỉ bao gồm sự khao khát và không gì khác.
Cái ego không ở trong hiện tại, nó ở trong tương lai. Nếu bạn ở trong tương lai, thì cái ego có vẻ như rất thực hữu. Nếu bạn ở trong hiện tại, thì cái ego là một ảo ảnh; nó bắt đầu biến mất.
Cái ngày mà tôi ngừng tìm kiếm… và cũng không đúng khi nói rằng tôi ngừng tìm kiếm; sẽ đúng hơn, nếu nói rằng, cái ngày mà sự tìm kiếm ngừng lại. Hãy để cho tôi lặp lại điều đó. Cách nói tốt hơn, là nói rằng, cái ngày mà sự tìm kiếm ngừng lại. Bởi vì nếu "tôi" làm cho nó ngừng lại, thì "tôi" lại ở đó một lần nữa." Bây giờ, sự ngừng lại trở thành nỗ lực của tôi, bây giờ sự ngừng lại trở thành ước vọng của tôi, và cái ước vọng tiếp tục hiện hữu trong một thể cách tế nhị.
Bạn không thể chận đứng ước vọng lại, bạn chỉ có thể hiểu nó. Khi bạn hiểu nó, tự nhiên nó ngừng lại. Hãy nhớ, không ai có thể làm ngừng lại việc ước vọng – và thực tại xảy ra khi ước vọng ngừng lại.
Bởi vậy, đây là cái nan đề. Phải làm gì? Ước (dục) vọng thì ở đó, và những vị Phật tiếp tục nói rằng ước vọng phải được chận lại, và họ tiếp tục nói, trong hơi thở tiếp theo, rằng, bạn không thể làm cho ước vọng ngừng lại. Vậy, phải làm gì? Bạn đặt người ta vào một nan đề. Họ đang ở trong ước vọng, chắc chắn rồi. Bạn nói, nó phải được chận lại – OK. Và rồi bạn nói rằng nó không thể được chận lại. Rồi, phải làm gì?
Cái ước (dục) vọng phải được thấu hiểu. Bạn có thể hiểu nó, bạn có thể đơn giản nhìn thấy sự vô ích của nó. Một "tri giác" trực tiếp được cần đến, và một sự thâm nhập tức thì được cần đến.
Cái ngày mà sự ước vọng chấm dứt, tôi cảm thấy rất "vô hy vọng” và "bất lực." Không có hy vọng, bởi vì không có tương lai. Không có gì để hy vọng, bởi vì mọi sự hy vọng đều tỏ ra vô ích, nó không dẫn tới đâu cả. Bạn đi vòng quanh. Nó tiếp tục lủng lẳng đằng trước mắt bạn, nó tiếp tục tạo ra những ảo ảnh mới, nó tiếp tục gọi bạn, "Nào, chạy nhanh lên, bạn sẽ tới đích." Nhưng dù bạn chạy nhanh bao nhiêu đi nữa, bạn sẽ không bao giờ tới đích. Nó giống như cái chân trời mà bạn thấy vòng quanh trái đất. Nó hiện ra, nhưng nó không có mặt ở đó. Nếu bạn đi về phía nó, nó tiếp tục chạy xa khỏi bạn. Bạn chạy càng nhanh, nó di chuyển càng xa khỏi bạn. Bạn càng đi chậm, nó càng di chuyển chậm ra xa. Nhưng một điều chắc chắn – cái khoảng cách giữa bạn và chân trời vẫn tuyệt đối không đổi. Thậm chí, bạn không thể rút ngắn một phân cái khoảng cách giữa bạn và chân trời.
Bạn không thể rút ngắn khoảng cách giữa bạn và hy vọng của bạn. Hy vọng là chân trời. Bạn cố bắc cầu chính mình với chân trời, với hy vọng, với một ước vọng đã được "dự phóng." Cái ước vọng là một cây cầu – một cây cầu trong mơ, bởi vì chân trời không hiện hữu. Cho nên, bạn không thể làm một cây cầu dẫn tới nó, bạn chỉ có thể mơ về cây cầu. Bạn không thể được kết nối với cái "phi hiện hữu".
Cái ngày mà ước vọng ngừng lại, cái ngày mà tôi nhìn vào nó và nhận thức rằng nó chỉ là vô ích, tôi bất lực và “vô hy vọng”. Nhưng chính cái khoảnh khắc đó, một cái gì đó bắt đầu xảy ra. "Cái đó" bắt đầu xảy ra, chính là cái mà vì nó tôi đã làm việc trong nhiều đời kiếp nhưng nó đã không xuất hiện. Trong sự vô vọng của bạn, ẩn chứa niềm hy vọng duy nhất của bạn, và trong sự "vô sở cầu" của bạn, ẩn chứa sự viên mãn duy nhất của bạn, và trong “sự vô vọng” to lớn của bạn, bỗng nhiên toàn bộ hiện hữu bắt đầu trợ giúp bạn.
Sự hiện hữu đang chờ đợi. Khi nó thấy rằng, bạn đang làm việc trên chính bạn, nó không can thiệp vào. Nó chờ đợi. Nó có thể chờ đợi một cách vô hạn, bởi vì không có gì vội vã đối với sự hiện hữu. Nó là vĩnh cửu. Cái khoảnh khắc mà bạn không có đó – cái khoảnh khắc mà bạn buông bỏ, cái khoảnh khắc bạn biến đi – thì toàn bộ hiện hữu lao vụt về phía bạn, đi vào bạn. Và lần đầu tiên, những sự việc bắt đầu xảy ra.
Trong 7 ngày đó, tôi đã sống trong một tình trạng không có hy vọng và sự trợ giúp, nhưng, đồng thời, một cái gì đó đang khởi lên. Khi tôi nói "không hy vọng", tôi không muốn nói "vô vọng" theo nghĩa thông thường, có tính tiêu cực, bi quan. Tôi chỉ đơn giản muốn nói rằng, không có niềm hy vọng nào trong tôi. Hy vọng vắng mặt. Tôi không nói rằng, tôi vô vọng và buồn. Tôi hạnh phúc, thật vậy, tôi rất bình an, trầm tĩnh, và tập trung. "Vô vọng" nhưng trong một nghĩa hoàn toàn mới. Không có niềm hy vọng nào, cho nên, làm thế nào có sự "vô vọng" được? Cả hai đều biến mất.
Sự không hy vọng này thì tuyệt đối và toàn diện. Hy vọng đã biến mất, và với nó, sự "vô vọng" – "đối tác" của nó, cũng biến mất. Nó là một kinh nghiệm hoàn toàn mới – của trạng thái không hy vọng. Nó không phải là một trạng thái tiêu cực. Tôi phải dùng từ "vô vọng", nhưng nó không phải là một trạng thái tiêu cực. Nó hoàn toàn tích cực. Nó không chỉ là một sự vắng mặt đơn thuần, mà nó là một sự có mặt được cảm nhận. Một cái gì đó đang chảy tràn bên trong tôi, tràn ngập tôi như cơn lụt.
Và khi tôi nói tôi "vô vọng", tôi không dùng từ "vô vọng" theo nghĩa thông thường của từ điển. Tôi chỉ đơn giản nói rằng tôi không có "cái tôi" – hoàn toàn "vô ngã". Đó chính là điều tôi muốn nói, khi tôi nói "không có trợ giúp". Tôi đã nhận thức sự kiện rằng, tôi "không hiện hữu” – cho nên, tôi không thể nương tựa vào chính mình, cho nên tôi không thể đứng trên cái "nền tảng" của riêng mình. Không có cái nền tảng nào bên dưới cả, tôi đang ở trong một vực thẳm… một vực thẳm không đáy. Nhưng không có sự sợ hãi nào, bởi vì không có cái gì cần bảo vệ. Không có sợ hãi, bởi vì không có chủ thể để cảm nhận sự sợ hãi.
Trong 7 ngày đó, đã diễn ra một sự chuyển hóa to lớn, sự chuyển hóa toàn bộ. Và vào ngày cuối, thì sự hiện diện của một năng lượng hoàn toàn mới, một ánh sáng mới và niềm hoan lạc mới trở nên quá mãnh liệt, đến nỗi nó hầu như không thể chịu nổi – như thể tôi đang nổ tung ra, như thể tôi đang phát điên với phúc lạc. Thế hệ trẻ tại phương Tây có một thành ngữ đúng cho nó: "bliss out" – tôi sướng điên lên.
Thật không thể nào giải thích được nó – cái đang xảy ra. Nó là một thế giới "vô nghĩa" – khó cắt nghĩa, khó xếp nó vào một phạm trù nào, khó dùng từ ngữ, ngôn ngữ, những lời giải thích. Mọi kinh điển nom có vẻ như chết, và tất cả những từ ngữ được dùng để diễn tả kinh nghiệm này đều nom có vẻ nhợt nhạt, thiếu máu. Nó sống động. Nó giống như một đợt sóng phỉ lạc.
Suốt ngày tôi ở trong trạng thái kỳ lạ, choáng váng, và đó là một kinh nghiệm bùng vỡ. Quá khứ đang biến đi, như thể là nó chưa bao giờ thuộc về tôi, cơ hồ như tôi đã đọc về nó ở một nơi nào đó. Như thể là tôi đã nằm mơ thấy nó, như thể nó là câu chuyện của một ai đó mà tôi đã nghe. Nó đang trở nên tuột ra khỏi quá khứ của tôi, tôi đang bị bật gốc khỏi lịch sử của mình.Tôi đang đánh mất tự truyện về mình. Tôi đang trở nên một phi-thể, cái mà đức Phật gọi là "vô ngã", anatta. Những ranh giới đang biến đi, những phân biệt đang biến mất.
Tâm trí đang biến đi; nó ở cách xa hằng triệu dặm. Thật khó mà chụp bắt nó, nó đang mỗi lúc càng lao đi xa hơn, và không có động lực nào để giữ cho nó kề sát. Nó chỉ đơn giản lãnh đạm với mọi sự. Điều đó tốt đẹp, không sao cả. Không có động lực muốn giữ sự liên tục với quá khứ. Vào khoảng chiều tối, thật khó lòng chịu đựng nó – nó đang gây đau đớn, thật đau đớn. Nó giống như khi một người phụ nữ đi vào cơn sinh nở, khi một đứa bé được sinh ra, và người phụ nữ chịu cơn đau dữ dội – cơn đau sinh nở.
Trong những ngày đó, tôi thường đi ngủ vào khoảng 12 giờ đêm hoặc 1 giờ sáng, nhưng ngày hôm đó, thật không thể giữ cho mình thức. Hai mắt cứ díu lại, khó lòng giữ cho nó mở. Một cái gì đó đang lơ lửng, một cái gì đó sắp xảy ra. Thật khó mà nói nó là cái gì – có lẽ nó sẽ là cái chết của tôi – nhưng không có chút sợ hãi nào. Tôi sẵn sàng đợi nó. Bảy ngày đó quá đẹp, đến nỗi tôi sẵn sàng chết; không có gì được cần đến. Chúng hết sức phúc lạc, tôi quá mãn nguyện, đến mức nếu cái chết đang đến, thì nó được chào đón.
Nhưng một cái gì đó đang xảy ra – một cái gì đó giống như cái chết, một cái gì đó mãnh liệt, một cái gì đó mà sẽ hoặc là một cái chết, hoặc là một sự tái sinh, một sự đóng đinh, hoặc một phục sinh – một cái gì đó có tầm quan trọng to lớn, nó đang gần kề. Thật không thể nào mở mắt, tôi bị đánh thuốc mê.
Tôi đi ngủ vào khoảng 8 giờ tối. Nó không giống như giấc ngủ. Bây giờ thì tôi có thể hiểu Patanjali muốn nói gì, khi ông nói samadhi (định) và giấc ngủ thì tương tự như nhau – vừa thức vừa ngủ cùng một lúc. Toàn cơ thể thư giãn, mọi tế bào của cơ thể hoàn toàn thư giãn, mọi sự vận hành ngừng lại, và một làn ánh sáng của ý thức cháy lên bên trong bạn… quang đãng, không có chút hoả mù nào. Bạn vẫn tỉnh táo, nhưng thư giãn, buông lỏng nhưng hoàn toàn tỉnh thức. Cơ thể ở trong giấc ngủ sâu nhất có thể được, và ý thức của bạn đang ở đỉnh điểm của nó. Cái đỉnh của ý thức và cái thung lũng của cơ thể gặp nhau.
Tôi đi ngủ. Đó là một giấc ngủ kỳ lạ. Cơ thể thì ngủ, nhưng tôi thì tỉnh thức. Nó thật hết sức kỳ lạ – như thể nó bị xé rách thành hai hướng, hai chiều kích; như thể hai cực đã trở nên đồng qui một cách hoàn toàn, như thể tôi là cả hai cực cùng một lúc… cực dương và âm đang gặp nhau, giấc ngủ và ý thức đang gặp nhau, cái chết và sự sống đang gặp nhau. Đó là khoảnh khắc khi mà bạn có thể nói rằng, kẻ sáng tạo và vật thụ tạo gặp nhau.
Nó thật là kỳ khôi. Lần đầu tiên, nó chấn động tới gốc rễ, nó lay động bạn tận nền móng của bạn. Bạn không bao giờ có thể còn như cũ sau cái kinh nghiệm đó; nó mang đến một nhãn quan ion] mới cho đời bạn, một chất lượng mới.
Khoảng 12 giờ đêm, hai mắt tôi bỗng mở ra – trước đó, mắt tôi chưa mở được. Giấc ngủ bị phá vỡ bởi một cái gì đó khác. Tôi cảm thấy một sự hiện diện vĩ đại xung quanh tôi trong căn phòng. Đó là một căn phòng rất nhỏ. Tôi cảm thấy một sự sống phập phồng khắp xung quanh mình, một sự rung động lớn – gần như một trận cuồng phong, một cơn bão lớn của ánh sáng, niềm vui, cơn xuất thần. Tôi đang chết chìm trong nó.
Nó vô cùng thực, đến nỗi mọi thứ khác đã trở thành không thực. Những bức tường của căn phòng trở nên không thực, căn nhà trở nên không thực, cơ thể của chính tôi trở nên không thực. Mọi sự đều không thực bởi vì bây giờ, lần đầu tiên, có thực tại. Đó là lý do tại sao đức Phật và Shankara nói rằng, thế giới là maya, một huyễn cảnh, chúng ta khó mà hiểu được. Bởi vì chúng ta chỉ biết cái thế giới này, chúng ta không có bất cứ sự so sánh nào. Đây là cái "thực tại" duy nhất mà chúng ta biết được. Những vị này đang nói về cái gì – đây là maya, huyễn cảnh? Theo chúng ta, đây là "thực tại" duy nhất. Trừ khi bạn biết cái thực tại đích thực, thì những lời nói của họ là không thể hiểu được. Những lời nói của họ vẫn còn là lý thuyết, chúng nom có vẻ như những giả thiết. Có lẽ người đàn ông này đang đưa ra một triết lý – "Thế giới là không thực."
Khi Berkeley ở phương Tây nói rằng, thế giới này là phi thực, ông đang đi dạo với một trong số những người bạn của ông, một người rất "logic"; người bạn đó gần như là một kẻ theo thuyết hoài nghi. Anh ta nhặt một hòn đá từ đường lộ và đánh mạnh vào bàn chân Berkeley. Berkeley hét lên, máu trào ra, và kẻ hoài nghi nói, "Nào, thế giới có phi thực không? Bạn nói thế giới là phi thực ư? Vậy tại sao bạn hét lên? Vậy thì tại sao bạn hét lên? Hòn đá này là phi thực ư? Vậy tại sao bạn hét lên? Tại sao bạn ôm lấy chân và nét mặt bạn lộ vẻ quá đau đớn? Tất cả nó đều là phi thực ư?"
Loại người này không thể hiểu đức Phật nói gì, khi Ngài nói thế giới là một huyễn cảnh. Ngài không ngụ ý rằng bạn có thể đi xuyên tường. Ngài không đang nói, rằng bạn có thể ăn những hòn đá, và việc bạn ăn bánh mì hay ăn đá, cũng không có gì khác nhau. Ngài không nói điều đó.
Ngài đang nói rằng, có một thực tại: một khi bạn đi tới chỗ biết nó, thì "cái mệnh danh là thực tại" này, chỉ đơn giản nhạt nhòa đi, đơn giản trở thành phi thực. Khi ta "nhìn thấy" một thực tại cao hơn, thì sự so sánh khởi lên, chứ không phải ngược lại.
Trong giấc mơ, thì giấc mơ là thực. Bạn mơ hằng đêm, và buổi sáng thức dậy, bạn nói rằng nó là không thực, và rồi ban đêm khi bạn nằm mơ, thì giấc mơ lại trở nên thực. Trong giấc mơ, thật khó mà nhớ rằng nó là một giấc mơ, nhưng vào buổi sáng, thì thật dễ. Cái gì xảy ra? Bạn vẫn là một con người đó. Trong giấc mơ, chỉ có một thực tại. Làm thế nào để so sánh? Làm thế nào để nói rằng nó không thực? So sánh với cái gì? Trong mơ, nó là thực tại duy nhất; mọi sự đều không thực như mọi thứ khác, cho nên không có sự so sánh nào. Vào buổi sáng, khi bạn mở mắt ra, một thực tại khác đang ở đó. Bây giờ bạn có thể nói, rằng giấc mơ là hoàn toàn không thực. So sánh với thực tại này, giấc mơ trở thành không thực.
Có một sự "thức tỉnh" – so sánh với cái thực tại của sự "thức tỉnh" đó, thì toàn bộ “thực tại trở nên phi thực.
Đêm đó, lần đầu tiên, tôi hiểu ý nghĩa của từ maya. Không phải là trước đó tôi không biết cái từ đó, không phải là tôi không nhận biết được cái nghĩa của từ đó. Như bạn nhận biết được, tôi cũng nhận biết được cái ý nghĩa của nó – nhưng trước đó, tôi chưa bao giờ hiểu nó. Làm thế nào bạn hiểu nếu không có kinh nghiệm? Đêm đó, một thực tại khác mở ra cánh cửa của nó, một chiều kích mới trở nên khả dĩ. Bỗng nhiên, nó ở đó, cái thực tại khác, cái thực tại "riêng biệt” – cái thực tại đích thực, hay bất cứ cái gì mà bạn muốn gọi nó. Hãy gọi nó là Thượng đế, chân lý, hãy gọi nó là Pháp, hãy gọi nó là Đạo, hay bất cứ cái gì mà bạn muốn. Nó không có tên. Nhưng nó ở đó – quá trong suốt, và thế nhưng, quá rắn chắc đến nỗi bạn có thể sờ vào nó. Nó hầu như làm tôi nghẹt thở, trong cái phòng đó. Nó quá tràn ngập, và tôi không đủ sức để hấp thu nó.
Một thôi thúc sâu xa khởi lên trong tôi, muốn lao ra khỏi phòng, đi dưới bầu trời – nó đang làm tôi nghẹt thở. Nó quá tràn ngập! Nó sẽ giết chết tôi! Nếu nó còn lưu lại thêm chỉ một vài khoảnh khắc nữa thôi, có lẽ nó đã làm tôi nghẹt thở – có vẻ như thế. Tôi lao ra khỏi phòng, đi vào đường phố. Một thôi thúc lớn đang ở đó, chỉ muốn ở dưới bầu trời, với những vì sao, với cây cỏ, với đất… với thiên nhiên. Và khi tôi ra tới bên ngoài, cái cảm giác bị nghẹt thở lập tức biến mất. Căn phòng là một nơi quá nhỏ bé cho một hiện tượng quá lớn lao như thế. Ngay cả bầu trời cũng là một nơi chốn nhỏ bé đối với một hiện tượng to lớn như thế. Nó lớn hơn cả bầu trời. Ngay cả bầu trời cũng không bao trùm được nó. Nhưng rồi, tôi cảm thấy thanh thản. Tôi đi bộ về phía khu vườn gần nhất. Đó là một cuộc đi dạo hoàn toàn mới mẻ, như thể trọng lực đã biến mất. Tôi đang bước đi, hay tôi đang chạy, hay tôi chỉ đơn thuần đang bay; thật khó mà quyết định. Không có trọng lực, tôi đang cảm thấy mình nhẹ tênh, không trọng lượng – như thể năng lượng nào đó đang chiếm lĩnh tôi. Tôi đang ở trong tay của của một năng lượng nào khác. Lần đầu tiên tôi không cô độc, lần đầu tiên tôi không còn là một cá thể, lần đầu tiên giọt nước đã rơi vào đại dương. Bây giờ, toàn bộ đại dương là của tôi, tôi là đại dương. Không có biên độ nào. Một quyền năng to lớn khởi lên, như thể tôi có thể làm bất cứ cái gì. Tôi không có mặt ở đó, chỉ có cái quyền năng nọ là ở đó.
Tôi đến khu vườn nơi mà tôi có thói quen đi tới mọi ngày. Khu vườn đóng cửa, nó đóng cửa vào ban đêm. Đã quá khuya, đã gần 1 giờ sáng. Người làm vườn đã ngủ. Tôi đã phải lẻn vào như một tên trộm, tôi phải trèo qua cổng. Nhưng một cái gì đó đang kéo tôi về phía khu vườn. Tôi không đủ khả năng để tự ngăn mình lại. Tôi chỉ đơn thuần đang trôi bồng bềnh.
Đó là cái mà tôi ngụ ý, khi tôi lặp đi lặp lại, "Hãy trôi bồng bềnh với dòng sông, đừng đẩy dòng sông." Tôi được thư giãn, tôi đang ở trong một sự buông bỏ. Tôi không ở đó, nó đang ở đó, hãy gọi nó là Thượng đế – Thượng đế đang ở đó. Tôi muốn gọi nó là nó, bởi vì Thượng đế là một từ quá "phàm tục" và đã trở thành quá dơ bẩn do bị dùng quá nhiều, đã trở nên quá ô nhiễm do bị quá nhiều người lạm dụng. Những người Kytô, Hindu, Mahommed, và những chính trị gia – tất cả họ đã làm hỏng vẻ đẹp của từ đó. Do vậy, hãy để tôi gọi nó là nó. Nó ở đó và tôi chỉ đơn thuần bị cuốn đi… cuốn đi bởi một đợt thủy triều.
Khoảnh khắc mà tôi bước vào khu vườn, mọi sự trở nên chói lọi, nó tràn ngập khắp nơi – ơn phước, sự diễm phúc. Tôi có thể thấy những cái cây lần đầu tiên – màu xanh lá cây của nó, sự sống của nó, chính cái chất nhựa đang chảy. Toàn bộ khu vườn đang ngủ, cây cỏ đang ngủ. Nhưng tôi có thể thấy toàn bộ khu vườn đang sống động, ngay cả những lá cỏ bé nhỏ cũng quá đẹp.
Tôi nhìn quanh. Một cái cây thì quá chói sáng – cây maulshree. Nó hấp dẫn tôi, nó hút tôi về phía chính nó. Tôi đã không chọn nó, chính Thượng đế đã chọn nó. Tôi đi tới cái cây, tôi ngồi dưới cây đó. Trong khi tôi ngồi ở đó, những sự việc bắt đầu ổn định lại. Toàn bộ vũ trụ trở nên một ơn phước.
Thật khó mà nói, là tôi đã ở trong trạng thái đó bao lâu. Khi tôi về đến nhà, đã 4 giờ sáng, cho nên chắc hẳn là tôi đã ở đó ít nhất là 3 tiếng, theo thời gian đồng hồ, nhưng mà nó là cái vô hạn. Nó không dính dáng gì tới thời gian đồng hồ. Nó là phi thời gian.
Ba tiếng đồng hồ đó trở thành toàn bộ vĩnh cửu, vĩnh cửu vô chung. Không có thời gian, không có sự trôi đi của thời gian; nó là thực tại trinh nguyên – không bị hoen ố, không thể xúc chạm, không thể đo lường.
Và ngày đó một cái gì đó đã xảy ra, mà đã tiếp tục – không phải là một sự tiếp diễn hiển lộ nhưng nó vẫn tiếp tục như là một dòng nước ngầm. Không phải như là một sự thường hằng, bất biến – mỗi khoảnh khắc, nó vẫn đang xảy ra, lặp đi lặp lại. Mỗi khoảnh khắc, nó là một phép mầu.
Và, từ đêm đó, tôi chưa bao giờ ở trong thân thể mình. Tôi đang bay lượn xung quanh nó. Nó trở nên vô cùng hùng mạnh, và đồng thời, rất mong manh dễ vỡ. Nó trở nên rất mạnh mẽ, nhưng sức mạnh đó không phải là sức mạnh của Muhammad Ali. Sức mạnh đó không phải là sức mạnh của một tảng đá; đó là sức mạnh của một bông hồng – quá mỏng manh về mặt vật lý, quá mẫn cảm quá dễ vỡ.
Tảng đá sẽ có thể ở đó, nhưng bông hoa thì có thể biến đi bất cứ khoảnh khắc nào. Nhưng, mặc dù vậy, bông hoa mạnh mẽ hơn tảng đá, bởi vì nó sinh động hơn. Hay, đó là sức mạnh của một giọt sương trên một lá cỏ, chỉ đơn giản chiếu sáng dưới mặt trời buổi sáng – quá đẹp, quá quý giá, và thế nhưng, nó có thể tan đi bất cứ khoảnh khắc nào. Quá vô song trong sự duyên dáng của nó, nhưng một ngọn gió nhẹ có thể đến và giọt sương có thể tan đi và chìm mất mãi mãi.
Những vị Phật có một sức mạnh, mà nó không thuộc về thế giới này. Sức mạnh của họ thì hoàn toàn xuất phát từ tình yêu… giống như bông hồng hay một giọt sương. Sức mạnh của họ thì rất mỏng manh, dễ bị thương tổn. Sức mạnh của họ là sức mạnh của sự sống, không phải của sự chết. Quyền lực của họ không phải là quyền lực dùng để giết hại; quyền lực của họ là quyền lực sáng tạo. Quyền lực của họ không phải là của sự bạo động, sự gây hấn; quyền lực của họ là quyền lực của từ bi.
Nhưng tôi chưa bao giờ có mặt lại trong cơ thể, tôi chỉ đơn thuần bay lượn xung quanh cơ thể. Và đó là lý do tại sao tôi nói rằng, nó đã là một phép mầu lớn lao. Mỗi khoảnh khắc, tôi ngạc nhiên rằng tôi vẫn còn ở đây. Lẽ ra, tôi đã rời bỏ – bất cứ khoảnh khắc nào – vậy mà tôi vẫn còn ở đây. Mọi buổi sáng, tôi mở mắt ra, và tôi nói, "Như vậy, tôi vẫn còn ở đây sao?" Bởi vì điều đó xem ra không thể được. Phép mầu đó chưa chấm dứt, nó vẫn tiếp tục.
Chỉ mới hôm kia, một ai đó hỏi một câu hỏi, “Osho, thầy đang trở nên quá mỏng manh và dễ vỡ, và quá nhạy cảm với mùi của dầu xức tóc và dầu gội đầu…”
Tôi mỏng manh, dễ vỡ, và nhạy cảm. Đó là sức mạnh của tôi. Nếu bạn ném một tảng đá vào một bông hoa, thì không có gì xảy ra với tảng đá, nhưng bông hoa sẽ tan tác. Bông hoa sẽ tan tác, bởi vì bông hoa thì sống động, đang sống. Và tảng đá – không có gì sẽ xảy ra nó, bởi vì nó chết. Bông hoa sẽ tan tác, bởi vì bông hoa không có sức mạnh hủy diệt. Bông hoa chỉ đơn giản "biến đi", và nhường chỗ cho tảng đá. Tảng đá có một quyền lực hủy diệt, bởi vì tảng đá chết, không có sự sống.
Hãy nhớ, từ ngày đó, tôi chưa bao giờ ở trong thân thể một cách thực sự; chỉ có một sợi chỉ mong manh nối kết tôi với thân thể mình. Và tôi ngạc nhiên một cách liên tục, rằng bằng cách này hay cách khác, cái toàn bộ ắt muốn tôi có mặt ở đây – bởi vì tôi không còn ở đây với sức mạnh của riêng tôi, tôi không còn ở đây một cách tự ý. Hẳn ý chí của cái toàn bộ đã giữ tôi lại đây, cho phép tôi nán lại thêm một chút trên bờ này. Có lẽ cái toàn bộ muốn chia sẻ một cái gì đó với bạn, thông qua tôi.
Từ ngày đó, thế giới là không thực. Một thế giới khác đã được "mặc khải" (tiết lộ). Khi tôi nói, thế giới là không thực, tôi không ngụ ý rằng, những cái cây này là không thực. Những cái cây này là "thực" một cách tuyệt đối – nhưng cái cách mà bạn nhìn những cái cây thì không thực. Những cây này là không thực trong tự thân chúng – chúng hiện hữu trong Thượng đế, chúng hiện hữu trong thực tại tuyệt đối – nhưng trong cách nhìn của bạn, thì bạn không bao giờ thấy chúng. Bạn đang nhìn một cái gì đó khác, một ảo ảnh.
Bạn tạo ra giấc mơ của chính mình xung quanh bạn, và trừ khi bạn trở nên tỉnh thức, bạn sẽ tiếp tục mơ. Thế giới là không thực, bởi vì cái thế giới mà bạn biết, là thế giới của những giấc mơ của bạn. Khi buông bỏ những giấc mơ, bạn chỉ đơn thuần gặp gỡ cái thế giới ở đó, thì thế giới thực xuất hiện.
Không phải có hai cái, Thượng đế và thế giới. Thượng đế là thế giới, nếu bạn có mắt, đôi mắt trong, không có chút bụi nào của những giấc mơ, không có bất cứ màn sương mù nào của giấc ngủ. Nếu bạn có đôi mắt sáng, sự trong suốt, có khả năng tri nhận, thì chỉ có Thượng đế mà thôi.
Khi đó, một nơi nào đó, Thượng đế là một cái cây màu xanh, và một nơi nào đó khác, Thượng đế là một vì sao đang chiếu sáng, và một nơi nào đó, Thượng đế là một con chim cu, và một nơi nào đó, Thượng đế là một bông hoa, một nơi nào đó khác, là một đứa trẻ, một dòng sông – rốt cục chỉ có Thượng đế hiện hữu. Cái khoảnh khắc mà bạn bắt đầu "thấy", thì chỉ có Thượng đế hiện hữu.
Nhưng ngay bây giờ, bất cứ cái gì mà bạn thấy, đều không phải là Thượng đế, nó là một sự dối gạt được phóng chiếu. Đó là ý nghĩa của một ảo ảnh. Và một khi bạn thấy – thậm chí trong một tích tắc, nếu bạn có thể thấy, nếu bạn có thể tự cho phép mình thấy – bạn sẽ tìm thấy ơn phước bao la, hiện diện khắp nơi, mọi nơi, trong những đám mây, trong mặt trời, trên mặt đất.
Đây là một thế giới đẹp đẽ. Nhưng tôi không đang nói về thế giới của bạn, tôi đang nói về thế giới của tôi. Thế giới của bạn thì rất xấu xa, thế giới của bạn là thế giới được tạo ra bởi "cái tôi", thế giới của bạn là một thế giới được phóng chiếu. Bạn đang dùng cái thế giới thực như là một màn hình và đang phóng chiếu những ý tưởng của riêng bạn lên nó.
Khi tôi nói, thế giới là thực, thế giới đẹp tuyệt vời, thế giới chói ngời với sự vô hạn, thế giới là ánh sáng và niềm hoan lạc, nó là một lễ hội, tôi ngụ ý rằng, đó là thế giới của tôi – hoặc, thế giới của bạn, nếu bạn từ bỏ những giấc mơ của bạn.
Đêm đó, tôi trở nên trống rỗng và trở nên tràn đầy. Tôi trở nên phi hiện hữu và đồng thời, trở nên hiện hữu. Đêm đó, tôi chết đi và tái sinh. Nhưng cái con người mà được tái sinh, thì không có dính dáng gì với con người đã chết, đó là một sự cắt đứt hoàn toàn. Trên bề mặt, nó trông có vẻ liên tục, nhưng mà nó không liên tục. Cái người đã chết, hắn chết hoàn toàn; không có gì của hắn còn lại.
Tôi đã biết nhiều những cái chết khác, nhưng chúng không là cái gì cả; so với "cái chết" của tôi, thì chúng chỉ là những cái chết từng phần.
Đôi khi cơ thể chết đi, đôi khi một phần của tâm trí chết đi, đôi khi một phần của cái ego chết đi, nhưng về cơ bản, thì nó vẫn còn đó. Được canh tân nhiều lần, được trang trí nhiều lần, thay đổi một chút ở đây, một chút ở kia, nhưng mà nó vẫn còn tồn tại, sự liên tục vẫn còn đó.
Đêm đó, cái chết là hoàn toàn. Nó là một nhật kỳ mà ở đó cái chết và Thượng đế có mặt cùng một lúc.
Sự chứng ngộ là một quá trình cá nhân. Bởi vì tính cá nhân của nó, nó đã tạo ra nhiều vấn đề. Trước hết, không có những giai đoạn cố định mà một người chứng ngộ nhất thiết phải trải qua. Mọi người đi qua những giai đoạn khác biệt nhau, bởi vì mọi người trong nhiều kiếp đã thu thập những loại "quy định” khác nhau.
Do vậy, chính những "quy định" mới là cái định hình con đường của bạn, chứ không phải là sự chứng ngộ. Và mỗi người có những điều kiện khác nhau, cho nên, không có cùng một lối đi cho hai người. Đó là lý do tại sao tôi cứ lặp đi lặp lại: Không có siêu xa lộ, chỉ có những con đường nhỏ – và ngay cái đó nữa, cũng không được làm sẵn. Không phải là bạn tìm thấy chúng sẵn sàng ở đó, và bạn chỉ phải đi trên chúng – không. Trong khi bạn bước đi, bạn làm ra chúng. Chính sự bước đi của bạn tạo ra chúng.
Người ta nói rằng, con đường chứng ngộ thì giống như một con chim đang bay trên bầu trời: nó không để lại dấu chân nào đằng sau nó; không ai có thể đi theo những dấu chân của con chim. Mọi con chim sẽ phải tạo ra những dấu chân của riêng nó, nhưng chúng lập tức biến đi trong khi con chim tiếp tục bay. Sự chứng ngộ cũng ở trong một tính huống tương tự, đó là lý do tại sao không thể có một "kẻ dẫn dắt" và "kẻ đi theo". Đó là lý do tại sao những người nói, "Ngươi chỉ đơn giản tin ta và đi theo ta" – giống như Jesus, Moses, Mohammed, Krishna – những người đó không biết gì về sự chứng ngộ.
Nếu họ đã biết, thì lời phát biểu này là không thể được. Bất cứ ai mà đã chứng ngộ, đều biết rằng mình không để lại dấu chân nào đằng sau; cho nên nói, "Hãy đến và theo ta," thì thật là phi lý.
Do vậy, cái gì xảy ra cho tôi, thì bất cứ ai khác không cần thiết phải trải qua. Có thể là, người ta có thể vẫn ở trạng thái bình thường và hốt nhiên chứng ngộ.
Nếu có 50 người trong cùng một phòng, và nếu tất cả chúng ta đi ngủ, thì mỗi người sẽ có giấc mơ của riêng mình. Các bạn không thể có chung một giấc mơ, đó là điều không thể được. Không có cách nào để tạo ra một giấc mơ chung. Giấc mơ của bạn sẽ là của bạn, giấc mơ của tôi sẽ là của tôi, và trong những giấc mơ khác nhau, chúng ta sẽ ở trong những nơi chốn khác nhau, Và khi chúng ta tỉnh dậy, tôi có thể thức dậy tại một giai đoạn nào đó trong giấc mơ của tôi, và bạn có thể thức dậy tại một giai đoạn nào đó trong giấc mơ của bạn. Làm thế nào chúng giống nhau được?
Sự chứng ngộ không là gì khác hơn sự "tỉnh dậy". Đối với người chứng ngộ, cuộc đời của hết thảy chúng ta đều chỉ là những giấc mơ. Chúng có thể là những giấc mơ tốt lành, chúng có thể là những giấc mơ chẳng lành; chúng có thể là những ác mộng, chúng có thể rất dễ thương, và đẹp, nhưng dù sao, đó cũng chỉ là những giấc mơ.
Bạn có thể tỉnh dậy bất cứ khoảnh khắc nào. Cái đó luôn là khả tính của bạn. Đôi khi bạn có thể làm một nỗ lực để tỉnh dậy, và bạn thấy rằng nó khó. Có thể bạn đã có những giấc mơ mà trong đó bạn đang cố la lớn, nhưng bạn không thể. Bạn muốn thức dậy và ra khỏi giường, nhưng bạn không thể, toàn thân bạn cơ hồ như bị tê liệt.
Vào buổi sáng, bạn thức dậy, và bạn đơn giản cười vào toàn bộ sự việc, nhưng vào khoảnh khắc khi mà nó đang xảy ra, thì nó không phải là một cái gì đó để cười nhạo. Nó thực sự nghiêm túc. Toàn bộ cơ thể bạn hầu như chết, bạn không thể cử động hai bàn tay mình, bạn không thể nói, bạn không thể mở mắt. Bạn biết rằng, bây giờ đời bạn đã kết thúc! Nhưng vào buổi sáng, bạn không còn ngó ngàng gì đến nó; bạn thậm chí không xem xét lại nó, xem nó là cái gì. Chỉ cần biết rằng nó là một giấc mơ, thì nó trở nên vô nghĩa. Một khi bạn đã tỉnh thức, thì những giấc mơ tốt hay xấu, cái đó không quan trọng.
Với sự chứng ngộ, tình huống cũng tương tự. Tất cả những phương pháp đã được dùng, dù sao, chỉ là để tạo ra một tình huống mà trong đó giấc mơ của bạn bị phá vỡ. Việc bạn bị luyến chấp bao nhiêu vào giấc mơ, cái đó sẽ khác biệt nhau, từ cá nhân này sang cá nhân khác. Giấc ngủ của bạn sâu bao nhiêu, sẽ khác biệt, từ cá nhân này sang cá nhân nọ. Nhưng tất cả mọi phương pháp đều chỉ để lay động bạn, để sao cho bạn thức dậy. Vào điểm nào bạn sẽ thức dậy, cái đó không quan trọng chút nào cả.
Cho nên, cái "suy sụp và đột phá" của tôi thì không nhất thiết phải xảy ra cho mọi người. Nó xảy ra với tôi trong cách đó. Có những lý do tại sao nó xảy ra trong cách đó. Tôi đang làm việc một mình trên chính tôi, không bè bạn, không có những bạn đồng hành, không có cộng đồng. Để làm việc một mình, người ta nhất thiết phải bước vào trong nhiều sự rắc rối, bởi vì có những khoảnh khắc mà chỉ có thể được gọi là những đêm tối của linh hồn. Quá tối đen và quá nguy hiểm, như thể bạn đã đến hơi thở cuối cùng của đời bạn, đây là cái chết, không là cái gì khác. Kinh nghiệm đó là một sự suy sụp thần kinh.
Đối mặt với sự chết, không có ai hỗ trợ và động viên bạn… không có ai để khuyên bạn đừng lo lắng, rằng cái này rồi sẽ qua đi. Hoặc, "Đây chỉ là một ác mộng, và buổi sáng thì gần, rất gần. Đêm càng tối, thì bình minh càng gần hơn. Đừng lo lắng." Xung quanh bạn, không có ai mà bạn có thể tin cậy, cũng không có ai tin cậy bạn – đó là lý do cho sự suy sụp. Nhưng nó không nguy hại. Nó trông có vẻ nguy hại vào khoảnh khắc đó, nhưng chẳng bao lâu đêm đen sẽ biến đi, và bình minh ở đó, sự suy sụp đã trở thành sự đột phá.
Đối với mỗi cá nhân, nó (sự chứng ngộ) sẽ xảy ra một cách khác nhau. Và điều tương tự cũng đúng sau sự chứng ngộ: Việc diễn đạt về sự chứng ngộ sẽ khác nhau. Cái đó cũng tạo ra một khó khăn lớn.
Vì sự chứng ngộ xảy ra một cách khác nhau ở mỗi cá nhân, nó đã tạo ra một khó khăn lớn. Chẳng hạn, nếu tôi có ý định tạo ra một tôn giáo, thì điều sau đây sẽ là một điều căn bản trong nó: rằng bất cứ ai đạt tới chứng ngộ, trước hết sẽ phải trải qua một cơn suy sụp thần kinh, chỉ khi đó, anh ta mới có một sự đột phá. Đó là cách mà tất cả mọi tôn giáo được tạo ra: những cá nhân áp đặt kinh nghiệm riêng của họ lên toàn bộ nhân loại, không xét đến tính độc đáo của mỗi cá nhân. Và rồi, sau sự chứng ngộ, vấn đề cũ vẫn ở đó. Mahavira vẫn trần truồng; do vậy, những đệ tử của Mahavira trong 20 thế kỷ, những người đã đi theo Ngài tới cùng, họ vẫn giữ nguyên trạng thái trần truồng. Tình trạng trần truồng đã trở nên tuyệt đối cần thiết. Những người Jaina không nghĩ rằng, Buddha chứng ngộ bởi vì Ngài không trần truồng! Một hiện tượng cá nhân bây giờ trở thành một tiêu chí phổ quát – cái đó, cũng là sai lầm.
Cái đã xảy ra cho Mahavira là sự nở hoa mang tính cá nhân trong cách đó. Ngài thực sự là một trong số những người đàn ông đẹp từng hiện hữu, và hẳn sẽ là một điều đáng tiếc, nếu Ngài đã sử dụng y phục. Cơ thể của Ngài thật đáng chiêm ngưỡng.
Ngài là con trai của một vị vua, và phụ vương Ngài hết sức ưa thích nghệ thuật đô vật Ấn Độ, và ông chuẩn bị cho Ngài về môn đó. Ông muốn Ngài là nhà vô địch của toàn đất nước – và Ngài đã có thể là nhà vô địch, cơ thể Ngài rắn chắc như thép. Ngài đã được nuôi dạy sao cho 24 giờ một ngày được dành cho một chủ đề duy nhất: trở thành nhà đô vật quán quân của toàn đất nước. Một cách tự nhiên, cơ thể Ngài được chuẩn bị. Nó có sự cân đối, mọi phân đều được chăm sóc, tính đến. Những nhà đô vật vĩ đại huấn luyện cho Ngài, người ta tẩm quất Ngài, những chuyên gia cho Ngài uống dược thảo và thuốc men – trên mọi phương diện, Ngài được chuẩn bị.
Và rồi, Ngài từ bỏ thế gian. Thay vì trở thành một nhà đô vật, Ngài trở thành một thiền giả. Và khi Ngài hốt nhiên chứng ngộ, Ngài trút bỏ hết y phục. Ngài chỉ có một mảnh vải mà Ngài dùng để che thân, và sau khi chứng ngộ, trong khi Ngài đi xuống đồi, một người hành khất hỏi xin Ngài một cái gì đó, bởi vì trời quá lạnh, và ông ta thì không có gì cả. Và Mahavira nhìn vào chính mình: Ngài chỉ có một cái khăn quàng, bởi thế, Ngài xé cái khăn quàng thành hai mảnh, và cho người ăn xin một nửa. Một nửa, Ngài giữ lại cho chính mình – bây giờ, nó không đủ cho thân, và ngay khi Ngài đang đi từ ngọn đồi xuống thung lũng, gai của một bụi hoa hồng vướng vào cái mảnh khăn quàng của Ngài. Ngài ngoái nhìn ra sau, cười to, và nói, "Tệ quá! Ta chưa bao giờ từ chối ai cái gì, cho nên, ngươi có thể lấy luôn mảnh này. Dù sao, nó cũng không có ích gì. Ta đã hà tiện một cách không cần thiết với người hành khất đó, bởi vì anh ta sẽ làm gì với cái nửa đó? Nó đã không đủ che cho chính ta, thì hẳn nó cũng không đủ che cho anh ta. Có lẽ người hành khất đó sẽ đi qua lối này, và anh ta sẽ lấy luôn mảnh này." Đó là cách mà Ngài trở nên trần truồng.
Nhưng Ngài tận hưởng mặt trời buổi sáng và làn không khí mát mẻ trong vùng quê nóng bức, vùng nóng nhất của Ấn Độ, Bihar. Và nó cho cảm giác quá nhẹ nhàng, đến nỗi Ngài nghĩ, "Đâu là cái cần thiết?" Và Ngài đã không bao giờ hỏi xin bất cứ cái gì từ bất cứ ai. Ngài vẫn cứ ở trong tình trạng trần truồng đó. Nhưng cái này không nhất thiết là một giai đoạn mà mọi con người chứng ngộ phải đi qua. Đức Phật không bao giờ trần truồng, Lão Tử, Kabir không bao giờ trần truồng.
Do vậy, nó đã từng là một vấn đề rất có ý nghĩa cho những tôn giáo. Chúng không thể chấp nhận những người chứng ngộ, chỉ vì những lý do nhỏ bé: họ không “ăn khớp” với những ý tưởng của các tôn giáo đó. Họ phải "ăn khớp” với một khái niệm nào đó, và cái khái niệm này thì được phái sinh từ chính người sáng lập ra chúng. Và không ai có thể trùng khít với cái khái niệm đó, cho nên mọi người (chứng ngộ) khác bị tố cáo như là không chứng ngộ.
Sự chứng ngộ là một bài ca rất cá nhân – luôn luôn không được biết đến, luôn luôn mới mẻ, luôn luôn độc nhất. Nó không bao giờ đến như là một sự lặp lại. Cho nên, đừng bao giờ so sánh hai người chứng ngộ với nhau; nếu không, bạn nhất thiết phải bất công với người này hoặc người kia, hay cả hai. Và đừng có bất cứ định kiến nào. Hãy đơn giản nhớ những phẩm chất rất "lỏng". Tôi nói "những phẩm chất lỏng, lưu chuyển", chứ không phải là những "tiêu chí cố định".
Thí dụ, mọi người chứng ngộ sẽ có sự im lặng sâu – hầu như sờ mó được. Trong sự có mặt của ông, những ai có tâm hồn rộng mở, dễ tiếp nhận, sẽ trở nên im lặng. Kẻ chứng ngộ sẽ có một sự mãn nguyện bao la, bất luận cái gì xảy ra, nó không tạo ra sự khác biệt nào đối với sự mãn nguyện của vị ấy.
Ông sẽ không còn để lại bất cứ câu hỏi nào, mọi câu hỏi đã tự giải tan – không phải là ông biết mọi câu trả lời, nhưng mọi câu hỏi đã tự giải tan. Và trong trạng thái này, của sự im lặng hoàn toàn, vô trí, ông có khả năng trả lời bất cứ câu hỏi nào, với sự sâu sắc cực lớn. Nó không cần sự chuẩn bị nào. Chính ông không biết là ông sẽ nói gì, nó đến một cách hồn nhiên; đôi khi, chính ông cũng ngạc nhiên. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông có những câu trả lời bên trong chính mình, được chuẩn bị sẵn. Ông không có câu trả lời nào cả. Ông chỉ đơn giản có sự "sáng tỏ", một làn ánh sáng mà có thể được tập trung trên bất cứ câu hỏi nào, và trên tất cả những hàm ý của câu hỏi, và tất cả những khả tính về câu trả lời trở nên rõ ràng.
Bạn có thể phát hiện rằng, đôi khi bạn hỏi một cái gì đó, và người chứng ngộ trả lời một cái gì khác. Điều đó xảy ra, bởi vì bạn không nhận biết về những hàm ý của câu hỏi của chính bạn. Ông không chỉ trả lời cho những từ ngữ của bạn. Ông trả lời bạn. Ông trả lời cho cái tâm trí mà đã làm phát sinh câu hỏi. Cho nên, nhiều lúc câu hỏi và câu trả lời có vẻ như không ăn nhập với nhau, nhưng chắc chắc là chúng gặp gỡ nhau. Chỉ có điều, là bạn sẽ phải đào sâu một chút vào trong câu hỏi, và bạn sẽ phát hiện rằng, đó chính xác là câu hỏi. Nhiều lần, bạn phát hiện ra rằng, bạn hiểu câu hỏi của bạn lần đầu tiên, khi nó được trả lời, bởi vì bạn không nhận biết được cái chiều kích đó, bạn không nhận biết được chính cái tâm trí của bạn, cái vô thức của bạn, từ đâu mà những từ ngữ của bạn đã sinh ra.
Nhưng người chứng ngộ không có câu trả lời nào cả, không có kinh điển, không có dấu chấm hỏi nào. Ông chỉ đơn giản là "có sẵn" ở đó, y như một tấm gương, ông đáp ứng, và ông đáp ứng với sự nồng nàn và sự toàn bộ.
Cho nên, có những tính chất uyển chuyển, không phải là "tiêu chí cố định". Đừng nhìn vào những điều nhỏ nhặt – ông mặc cái gì, ông ăn cái gì, ông sống ở đâu – tất cả những cái này đều không ăn nhập. Hãy đơn giản tìm kiếm lòng từ bi của ông, sự tin cậy của ông. Ngay cả khi bạn lợi dụng lòng tin cậy của ông, thì cái đó cũng không làm thay đổi cái lòng tin cậy của ông. Ngay cả khi bạn lạm dụng lòng từ bi của ông, lừa gạt tình yêu của ông, thì cái đó cũng không tạo ra sự khác biệt nào. Đó là vấn đề của bạn. Sự tin cậy của ông, lòng từ bi của ông, tình yêu của ông vẫn y nguyên như cũ.
Nỗ lực duy nhất của ông trong đời, sẽ là, làm thế nào cho bạn tỉnh giấc. Bất luận cái gì ông làm, cái này là mục đích duy nhất đằng sau mọi hành vi: làm thế nào cho mỗi lúc càng thêm nhiều người tỉnh thức, bởi vì, qua sự tỉnh thức, ông đã đi tới chỗ biết được cái phúc lạc tối hậu của cuộc sống.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét