CHƯƠNG 10. CHÚNG TA LÀ ĐIỀU TA LÀM
Người biết việc sinh
và sự tan biến của người biết, việc biết
và đối tượng của việc biết,
thì là bản thân mình không có sinh hay tan biến,
sự tự toả sáng này được gọi là sakshi, nhân chứng.
Cái cư ngụ trong tâm thức
của mọi sinh linh sống,
từ Brahma, vị thần sáng tạo,
tới con sâu bọ nhỏ nhất, và cái còn lại
ngay cả khi tất các những thân thể thô và tinh không còn nữa,
được gọi là kootastha, cái không thể huỷ diệt nổi.
Chỉ như một sợi chỉ xuyên qua từng hột của chuỗi hạt,
linh hồn len vào từng tế bào của thân thể
để cho nó có thể trở nên nhận biết về bản tính đúng của mình
từ trong các đặc trưng khác nhau.
Cái một này được gọi là antaryami,
người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác.
Trí huệ Ấn Độ đã coi con người, như con người hiện thế, không là gì nhiều hơn một bọc những bệnh tật; như con người hiện thế, con người là bệnh tật. Nhưng điều này không phải là thái độ chán nản với cuộc sống. Thái độ này không tiêu cực. Như con người hiện thế, con người được coi là bệnh tật, bởi vì chừng nào con người còn tin vào trạng thái bệnh tật này là lành mạnh của mình thì con người không thể đạt tới tiềm năng bản chất của mình được.
Con người có những khả năng vô hạn. Nếu viên kim cương nằm giữa đống sỏi đá và chấp nhận bản thân mình như một viên đá bình thường, nó chấm dứt khả năng cho mọi sự phát triển; không khả năng nào còn lại cho bất kì sự tinh luyện nào, cho bất kì tiến hoá nào. Nếu chúng ta tin rằng như chúng ta tất cả đang đó, thế thì không có khả năng nào để trưởng thành cả. Trưởng thành là có thể chỉ nếu chúng ta không lấy điều chúng ta đang là làm tiềm năng tối thượng của mình. Bất kì nơi nào có khả năng trưởng thành theo bất kì khía cạnh nào, chúng ta phải tin bản thân mình là chưa hoàn hảo theo khía cạnh đó.
Một điều duy nhất đã xảy ra trong lịch sử nhân loại. Đó là việc phương Tây chưa bao giờ coi các hoàn cảnh bên ngoài của nó là trạng thái hoàn hảo tối thượng; do đó phương Tây đã thành công trong việc thay đổi những hoàn cảnh này ở một chừng mực lớn lao. Nếu đã có nghèo nàn, nó đã không chấp nhận điều đó, nếu đã có ốm yếu, nó đã không chấp nhận điều đó, nếu chỉ có một cái lều nhỏ để sống trong, nó đã không chấp nhận điều đó, nó đã không chấp nhận con đường gồ ghề gập ghềnh, nó đã không chấp nhận tốc độ chuyển động chậm chạp. Phương Tây đã không chấp nhận hoàn cảnh bên ngoài như chúng tồn tại. Đó là lí do tại sao phương Tây đã thay đổi hoàn toàn chúng.
Nhưng phương Đông đã trải qua một thực nghiệm còn sâu sắc hơn. Phương Đông không chấp nhận trạng thái bên trong của con người như nó hiện thế. Một chỉ báo về điều này được nêu ra khi người ta nói rằng như con người hiện tại, con người là bệnh tật. Con người xứng đáng cho biến đổi; con người nên tự biến đổi bản thân mình. Con người có thể đạt tới bản thể bên trong của mình, chỉ nếu con người thay đổi. Nếu con người biến đổi, chỉ thế thì con người mới có thể đạt tới trạng thái nơi con người có thể an bình, bằng lòng và phúc lạc.
Phiền não của chúng ta là phiền não của hạt mầm. Nếu hạt mầm không trở thành cây, phiền não là tự nhiên. Và nếu hạt mầm tin vào việc vẫn còn là hạt mầm, rằng nó là hoàn hảo như nó hiện thế, thế thì không có cách nào để cho nó mọc lên được.
Do đó hiền nhân này đang giải thích về năm nhóm bệnh tật này. Chúng ta đã nói về ba nhóm đêm qua... bây giờ tới nhóm thứ tư. Nhóm thứ tư là sattva, ngoan đạo, cảm giác về việc là 'thiện', và nhóm thứ năm, punya, đức độ.
Nhóm thứ ba là ham muốn, thèm khát, tham lam. Ham muốn nghĩa là đòi hỏi về đối tượng gì đó. Ham muốn về tiền bạc, ham muốn về danh vọng... tiền bạc và danh vọng tồn tại bên ngoài bản thân người ta. Thậm chí còn có ham muốn tinh vi hơn mà chúng ta thường không hiểu. Hiền nhân này gọi nó là ‘sattva’.
Một người không có ham muốn về tiền, về danh vọng, nhưng người đó lại ước ao được là thiện nhân - là thánh nhân, là một sannyasin. Điều này nữa cũng là một ham muốn. Mặc dầu chẳng cái gì được nó thêm vào cho bạn từ bên ngoài, vậy mà điều này nữa cũng là một thèm khát - không phải vì tiền bạc mà vì tôn giáo. Ham muốn là bệnh tật. Ham muốn này, “Mình muốn được thánh thiện,” cũng được bao hàm; cho dù là nó chỉ liên quan tới bên trong.
Hôm qua một người bạn tới và nói, “Tôi muốn được điểm đạo là sannyas - nhưng sannyas bên trong, không phải cái bên ngoài. Bởi vì bất kì cái gì của bên ngoài cũng dường như là một phần của ham muốn - ngay cả tính chất sannyas bên ngoài.” Tính chất sannyas bên trong không giống như ham muốn - nhưng nó là ham muốn rất tinh tế. Nó cũng là ham muốn. Bất kì khi nào bạn muốn trở thành cái gì đó, ham muốn nhất định có đó.
Hiền nhân này nói rằng nếu bạn bị gắn cho dù với ham muốn về sattva, nó cũng là bệnh tật; ngay cả ham muốn là người thiện, ham muốn về việc làm thuần khiết bên trong, về hoàn hảo, cũng là bệnh tật. Điều này là thú vị. Những bệnh tật này cần được hiểu để cho hoàn thiện bên trong có thể biểu lộ ra.
Bây giờ một điều nữa cần hiểu: tôi đã nói với các bạn về hạt mầm; ví dụ này có tác dụng ở chừng mực nào đó, nhưng nó không đi thật xa. Không ví dụ nào đi thật xa cả, và kéo căng nó ra bên ngoài giới hạn của nó thì sẽ tạo ra vấn đề. Nếu hạt mầm được thoả mãn với việc là hạt mầm, nó sẽ chẳng bao giờ trở thành cây, điều này là đúng. Nhưng thực tại bên trong là con người hiện hữu, đã có đó rồi. Nếu người đó lầm lẫn coi mình là cái gì đó khác, người đó sẽ không có khả năng nhận ra thực tại này, cho dù nó đã có đó rồi. Điều người đó là, ở bên trong, không phải là cái gì đó mà người đó sẽ trưởng thành trong tương lai, nó đã hiện diện ngay từ bây giờ rồi.
Chẳng hạn, một kẻ ăn xin có chìa khoá kho báu trong túi áo mình. Kho báu đó có sẵn ngay bây giờ, chìa khoá cũng sẵn có ngay bây giờ, nhưng kẻ ăn xin quên mất chìa khoá, không nhớ tới nó và cứ tiếp tục đi ăn xin từ sáng tới tối. Người đó bận rộn ăn xin đến mức người đó không có thời gian cho tay vào túi mình bởi vì tay còn đang chìa ra về phía người khác. Và tay đang chìa ra xin người khác không thể nào đưa vào trong túi của mình được, họ bao giờ cũng bận rộn trong việc xin ăn. Tâm trí người đó bao giờ cũng tập trung vào người khác, cho nên người đó không tìm ra được thời gian để tìm kiếm bên trong. Bất kì thời gian nào có được trong đêm người đó đều dùng vào việc đếm đi đếm lại số tiền nhận được từ người khác. Đến sáng lại cùng điều như vậy diễn ra. Đến tối lại cùng việc đếm đi và đếm lại đó.
Không chỉ các triệu phú mới giữ số tiền gửi, ngay cả kẻ ăn xin cũng làm điều đó. Và đó là lí do tại sao khác biệt giữa triệu phú và kẻ ăn xin chỉ là ở lượng chứ không ở chất; một người có số tiền nhỏ còn số tiền của người kia lớn hơn một chút, nhưng ăn xin vẫn là như nhau.
Cuộc sống đi tới chỗ chấm dứt và kẻ ăn xin vẫn chỉ giữ số tiền; người đó không có thời gian để nhìn vào bên trong. Và một điều là chắc chắn: kẻ ăn xin tin rằng điều mình thiếu, người khác có, và người đó phải lấy nó từ họ. Liên tục ăn xin, người đó trở nên đóng chốt lại trong ý tưởng rằng bất kì cái gì đáng xin đều ở người khác: “Tôi không có nó.”
Điều tôi đang nói là đúng cho tất cả chúng ta. Bất kì khi nào chúng ta thấy cái gì đó chúng ta thích, nó thuộc về người khác. Phương tiện đáp ứng cho các ham muốn của chúng ta bao giờ cũng qua người khác, bao giờ cũng bằng người khác. Cho nên chúng ta cứ ăn xin, ăn xin và việc ăn xin liên tục này tạo thành một thói quen mạnh mẽ và không để cho chúng ta có cách nào nhìn vào bên trong mình.
Cho nên bây giờ hiền nhân này nói rằng ngay cả những người có thể cố gắng trở thành tốt hơn không qua tiền bạc hay qua danh vọng mà qua tất cả những ý định 'thiện' - qua việc theo đuổi tôn giáo, qua hành vi từ thiện, qua việc tìm kiếm chân lí, qua việc tìm kiếm sattva này, qua thanh thản - những thứ không ai coi là xấu cả...
Một người tích luỹ tiền của; bất kì ai cũng có thể nhìn xuống việc tích luỹ của người đó. Thế rồi một người tích luỹ tri thức tôn giáo, nhưng không ai sẽ nhìn xuống tích luỹ này, mặc dầu cả hai trong họ đều làm cùng một điều - đáp ứng cho ham muốn tích luỹ. Mọi người sẽ nói rằng người tích luỹ của cải là đang chồng chất rác rưởi; và vậy mà người đang chồng chất tri thức tâm linh lại được ca ngợi vì người đó đang trên hành trình đức độ, hành trình tôn giáo. Nhưng đồng tiền vô giá trị của tri thức tâm linh chỉ có sẵn ở bên ngoài như tiền bạc mà thôi.
Có những đồng tiền của tri thức nữa. Một người ghi nhớ các kinh sách và trở thành khôn ngoan. Nhưng kinh sách cũng chỉ là một phần của cái bên ngoài như tiền bạc. Người đó không đặt của cải này vào chỗ an toàn mà vào trí nhớ của mình. Trí nhớ cũng là chỗ an toàn. Và theo một cách nào đó người này còn láu lỉnh hơn, tính toán hơn, bởi vì két sắt nhà băng có thể bị phá vỡ, có thể bị đánh cắp, nhưng khó mà đánh cắp được từ cái tủ khoá có tên trí nhớ. Chừng nào một người như Mao còn cai trị xã hội, khó mà đánh cắp được từ nó. Nhưng điều đó là có thể.
Bây giờ các nỗ lực đang được thực hiện để can thiệp vào trí nhớ của bạn, để cho bản thân bạn không còn là người chủ của nó nữa. Những thiết bị tẩy não đã được làm ra - não bạn có thể bị tẩy đi, xoá sạch hoàn toàn.
Sau chiến tranh Triều Tiên, Trung Quốc đã làm những thực nghiệm tẩy não triệt để lên những tù nhân chiến tranh Mĩ và một sự kiện thú vị được đưa ra ánh sáng, và thông tin này là có giá trị. Sự kiện này là ở chỗ chỉ năm phần trăm số người mới bị phát sinh vấn đề trong việc tẩy não. Không có vấn đề gì với chín mươi lăm phần trăm còn lại, bởi vì chín mươi lăm phần trăm này không phải là người chủ của trí nhớ của riêng mình, họ có thể dễ dàng bị tẩy não. Trí nhớ bị xoá đi bằng một phương pháp đơn giản, và người đã bị tẩy não không thể chú ý được tới những thay đổi mà mình đã trải qua - quên mất những khái niệm, niềm tin và ý thức hệ cũ.
Stalin và Mao cả hai đã làm những thực nghiệm có ý nghĩa - nguy hiểm, và chống lại tự do con người, nhưng có ý nghĩa bởi vì họ đã làm lộ ra vài điều. Một người không phạm tội giết người có thể bị làm cho phải thú nhận rằng mình đã làm điều đó, và người đó thậm chí còn phát biểu điều này trước toà. Và điều ngớ ngẩn đã xảy ra: kẻ giết người thực đã bị bắt, và vậy mà người bị tẩy não lại đã thú nhận về tội ác mà mình không phạm phải và đã bị treo cổ vì việc đó. Và người đó đã thú nhận không bị sức ép nào. Điều mới về việc đó là ở chỗ người đó không bị đánh đập hay bị buộc phải thú nhận, người đó đơn giản bị tẩy não và rồi bị làm cho phải thú nhận. Một khi đã bị tẩy não, dễ đặt bất kì cái gì vào trí nhớ.
Nếu một người bị giữ cho thức trong bẩy ngày và không được phép ngủ thì người đó sẽ trở thành bị loạn trí. Người đó sẽ không rõ ràng được về trạng thái của mình - liệu người đó đang mơ hay đang ngủ hay đang thức. Nếu người đó không được phép ngủ hay mơ hay trong bẩy ngày, người đó sẽ bắt đầu mơ mà mắt vẫn mở; thế thì người đó sẽ không chắc chắn liệu bức tường trước mình có thực tồn tại hay chỉ dường như ở đó thôi.
Ngay khi người đó không thể phân biệt giữa mơ và thực, người đó trở thành mong manh, bất kì cái gì đều có thể được đặt vào hoặc lấy ra khỏi bộ não của người đó. Tại thời điểm mong manh này những băng ghi âm được bật lên đem cho người đó những ý tưởng mới và xoá đi những ý tưởng khác. Người đó bây giờ dễ bị ảnh hưởng, và sẽ chấp nhận bất kì điều gì bạn bảo người đó; bất kì điều gì bạn nhồi nhét vào người đó đều sẽ đi sâu vào trong vô thức của người đó. Người đó thậm chí có thể thú nhận trước toà rằng mình đã giết người bởi vì ý nghĩ đó đã được đặt sâu vào trong tâm trí người đó. Người đó không thể phủ định nó - điều đó vượt ra ngoài sự kiểm soát của người đó. Bản thân người đó bây giờ tin rằng mình đã phạm tội ác, bởi vì trí nhớ của người đó đã bị can thiệp vào.
Nhưng mãi tới gần đây không ai có khả năng tấn công và phá vỡ cái két sắt của trí nhớ, cho nên những người khôn ngoan đã viết - họ không nên được gọi là người trí huệ, họ chỉ là những học giả có hiểu biết... họ đã viết rằng tiền bạc có thể bị đánh cắp, nhưng tri thức thì không. Nhưng bây giờ nó cũng có thể bị đánh cắp, bởi vì nó cũng chỉ là một sự tích luỹ. Thói quen tích luỹ là như nhau, chẳng có khác biệt gì về điều người ta tích luỹ - tem bưu điện, của cải hay tri thức - chẳng khác biệt gì. Niềm vui tích luỹ thuộc vào bên ngoài.
Đó là lí do tại sao biết bao nhiêu giá trị được đặt vào vô sở hữu, vào không tích lũy. Vô sở hữu không có nghĩa là từ bỏ vật sở hữu bên ngoài, nó có nghĩa là việc từ bỏ thái độ và ham muốn tích luỹ. Chỉ thế thì cuộc hành trình bên trong mới là có thể.
Sattva, ngoan đạo, cũng là một loại tích luỹ. Ai đó tự hào nói, “Tôi đã nhịn ăn ba tháng.” Người đó không tích luỹ gì cả, thậm chí không thức ăn tích luỹ vào bên trong thân thể. Người đó thậm chí không tích luỹ thức ăn vào trong thân thể - trong ba tháng đó thân thể người đó mất trọng lượng; người đó mất đi cái gì đó và chẳng tích luỹ gì. Nhưng người đó đã tích luỹ giá trị công đức tôn giáo ba tháng nhịn ăn! Người đó đã tích luỹ điều này. Bây giờ người đó muốn khoe rằng mình đã nhịn ba tháng. Đây là cùng một thái độ tích luỹ.
Người khác nói, “Tôi đã làm từ thiện nhiều lắm.” Trong việc làm từ thiện người ta không tích luỹ; ngược lại, trong việc làm từ thiện người ta mất. Người ta mất tiền nhưng lại tích luỹ tự hào về từ thiện: “Tôi đã làm từ thiện nhiều lắm.”
Một người đàn ông đã tới cùng với vợ mình để gặp tôi. Người vợ đã quen tôi, và cô ấy đã tới để giới thiệu chồng mình cho tôi. Vào lúc giới thiệu cô ấy nói rằng chồng cô ấy đã đem mười vạn đồng ru pi làm từ thiện. Người chồng ngắt lời, “Không, không, đấy là mười vạn mười nghìn.” Nó đã được đem cho đi rồi, nhưng tự hào về việc cho được tích luỹ lại. Chúng ta không chỉ đếm cái chúng ta sở hữu, chúng ta đếm cả cái chúng ta cho đi. Việc đếm vẫn tiếp tục.
Chúng ta thậm chí còn tích luỹ cả ngoan đạo - chúng ta nhớ bất kì cái gì thiện chúng ta đã làm. Nhưng kì lạ là chúng ta chọn không nhớ khi chúng ta làm cái gì đó xấu. Cho nên tội nhân không có nhiều tuyển tập về những việc làm ác của mình. Người khác có thể nghĩ anh ta là xấu, nhưng anh ta nói, “Cái gì, tôi sao?” Nhưng cái gọi là người thiện cũng tích luỹ những hành động thiện của mình. Cũng khá ngạc nhiên điều thường xảy ra là tội nhân lấy bước nhảy để đi vào bên trong mình còn sớm hơn cái gọi là người thiện. Đó là vì, theo một cách nào đó tội nhân trống rỗng bên trong; người đó không giữ bản kê gì về điều mình đã làm bởi vì bản kê đó là không dễ chịu. Bất kì điều gì người đó đã làm, bản thân người đó không thích là mình đã làm nó, do đó người đó không giữ lại bản kê nào về nó cả.
Nhưng người 'thiện'... người đó giữ bản kê về mọi thứ người đó đã làm. Có lẽ người đó đếm ngay cả cái người đó không làm; người đó thổi phồng bản kê lên. Có thể nhiều thứ có trong tâm trí người đó, nhưng không cần, mà người đó vẫn cứ tính tới nó. Việc tích luỹ này là chướng ngại.
Chuyện xảy ra nhiều lần rằng ngay cả một Valmiki nào đó, Angulimal nào đó - toàn tội phạm - đạt tới chân lí trong khoảnh khắc. Điều này là vì việc tích luỹ những hành động thiện là chướng ngại còn lớn hơn tội ác. Kẻ tội phạm có thể thu thập cái gì? Người đó biết rằng người đó chẳng là gì cả, không có vị trí gì - vô ngã là có thể. Nhưng với một người 'thiện' thì có quá nhiều bản ngã.
Hiền nhân này nói rằng ngay cả sattva, cảm giác về việc là 'thiện', cũng là một bệnh tật. Đây là một phát biểu rất bạo dạn. Không tôn giáo nào ngoài Ấn Độ nói rằng ngay cả điều thiện cũng là bệnh tật. Điều ác đã được gọi là bệnh tật, tội lỗi đã được gọi là bệnh tật, nhưng cái thiện chưa bao giờ bị gọi là bệnh tật cả. Chắc chắn không tôn giáo nào sinh ra bên ngoài Ấn Độ có khả năng siêu việt lên trên đạo đức, do đó không ai có thể trở nên mang tính tôn giáo theo nghĩa thực.
Khi phương Tây trở nên quen với trí huệ phương Đông, lần đầu tiên họ sửng sốt bởi vì những phát biểu này dường như là phi tôn giáo, chúng là những phát biểu rất hỗn loạn. Nếu bạn bảo một người rằng việc tích luỹ hành vi thiện cũng là bệnh tật, thế thì bạn đang cho phép người đó đi lạc lối. Nhưng điều đó là hiểu lầm. Những người có thể nói rằng thậm chí việc tích luỹ hành vi thiện là bệnh tật, tất nhiên họ hàm ý rằng việc tích luỹ hành vi ác là bệnh tật còn lớn hơn. Bệnh tật là việc tích luỹ, cho nên tích lũy công đức tôn giáo và điều đó trở thành bệnh tật. Tất nhiên hành vi ác là bệnh tật; không có nhu cầu để nhắc tới nó, nó là hiển nhiên. Nó không cần được thảo luận nữa.
Bảo ai đó rằng ăn cắp là tội lỗi chứng tỏ rằng xã hội còn chưa được tiến hoá tới mức những điều như vậy vẫn còn phải được phát biểu ra. Nhưng phải quan niệm về việc không phải là kẻ cắp thì cũng là một tội lỗi. Và phát biểu này là có thể khi xã hội đã đi ra ngoài giới hạn nào đó mà việc ăn cắp tự nhiên được hiểu là tội lỗi. Thế thì sẽ không có nhu cầu nói về nó!
Khi người Ki tô giáo lần đầu tiên nghiên cứu Upanishads họ rất sửng sốt; chẳng có gì như mười điều răn trong Upanishads cả - không ăn cắp, không ham muốn vợ người khác, không ngoại tình. Họ hỏi, “Mười điều răn ở đâu? Giáo lí cơ bản ở đâu?”
Họ đã không nhận biết rằng người viết ra những lời kinh này đã biết rằng nói về mười lời răn là ngây thơ; rằng điều này chỉ thích hợp cho xã hội nguyên thuỷ nơi mọi người cần được bảo cho rằng không nên phạm ngoại tình, rằng không nên ham muốn vợ người khác; rằng đây là điều ác. Những phát biểu như vậy truyền đạt rằng những bài học sơ đẳng vẫn còn được dạy. Thời điểm vẫn còn chưa tới khi bản ngã đức độ, bản ngã của người không ham muốn vợ người khác, cũng được coi là tội lỗi. Việc tự ý thức về cái thiện này cũng là tội lỗi, bởi vì điều này cũng làm mạnh cho bản ngã.
Sattva cũng là bệnh tật - bệnh 'thiện'. Điều đó xảy ra cho người thiện; dẫu sao đi chăng nữa nó cũng xảy ra. Bởi vì bệnh tật này mà hoá ra người thiện thường tỏ ra còn tồi hơn cả người xấu, bởi vì họ có tự cao về việc là thiện và điều này tạo ra địa vị thống trị; tự cao tạo ra một loại cảnh nô lệ nguy hiểm được áp đặt lên người khác.
Không dễ gì là con của cái gọi là người bố 'thiện'. Người bố ngoan đạo tỏ ra hà khắc với đứa con đến mức hà khắc này có thể trở thành nguyên nhân cho đứa con biến thành kẻ ác. Quá mạnh mẽ hướng tới trở thành thiện cũng trở thành hấp dẫn biến thành ác. Và nếu người bố thiện tới mức con ông ấy không thể siêu việt lên trên điều thiện của ông ấy thì chỉ còn mỗi một phương án, đó là vượt lên trên ông ấy qua làm điều ác.
Đó là lí do tại sao cái gọi là bố ‘thiện’ nói chung có con không thiện - lí do là rất hiển nhiên: cái thiện thường lệ, lặp lại trở thành chán. Cái thiện có lỗi trong nó - rằng người khác thậm chí không thể nói với bạn rằng bạn sai. Cho nên kiêu ngạo của bạn không thể bị thách thức.
Tôi đã nghe nói về Rinzai, một thiền sư. Đôi khi ông ấy sẽ làm những điều không thiện, mặc dầu ông ấy có cùng tầm cỡ như Phật. Những người biết ông ấy rõ đều đã hỏi nhiều lần, “Sao thầy lại làm những hành vi nhỏ nhen thế, đem lại sỉ nhục không cần thiết và làm xấu đi tên tuổi thầy?”
Rinzai hay đáp lại, “Ta chỉ là con người trong những con người mà thôi, bằng không thì ta đã là siêu nhân. Nếu ta trở thành thiện đến mức ta không có cái ác, đã trở thành hoàn toàn siêu nhân; ta trở thành nặng như hòn đá cho mọi người. Ngay cả đệ tử của ta cũng phê phán ta và do vậy họ cảm thấy nhẹ nhõm, và khi họ có thể cười ta khi vắng ta, ta được cứu thoát khỏi làm cho họ thành kẻ thù của ta.”
Đây là điều đáng ngạc nhiên thực. Ông ấy phải là một con người kì lạ, nhưng ông ấy có sáng suốt lớn về tâm lí con người.
Thầy giáo giỏi biết rõ rằng học trò phải có cơ hội cười sau lưng mình. Đây là cách tẩy rửa giận dữ mà chúng tích luỹ lại trong năm hay sáu giờ bị bắt buộc ngồi trước thầy.
Cho nên người tốt trở thành rất nặng nề, nhưng điều đó chỉ xảy ra nếu sattva, lòng tốt, của họ, là bệnh tật của họ, không phải là chính bản tính của họ.
Khi hiền nhân này nói rằng sattva cũng là bệnh tật, ông ấy không nói rằng là một sattvik, một người làm điều thiện, là bệnh tật. Điều ông ấy ngụ ý là ở chỗ việc tích luỹ điều thiện và hành vi thiện và việc gắn nó với bản ngã là bệnh tật. Cái cảm giác rằng ‘Mình là người thiện’ là bệnh tật; làm việc thiện không phải là bệnh tật. Người thiện thực sự thì thiện đến mức người đó bao giờ cũng tha thứ ngay cả cho điều ác.
Bayazid, nhà huyền môn Sufi, đi hành hương trong những ngày lễ Ramadan, thời gian nhịn ăn. Ông ấy có một trăm đệ tử đi cùng mình. Đó là ngày đầu tiên của kì nhịn ăn và họ vừa mới vào thị trấn đầu tiên thì một người nào đó tới và bảo Bayazid rằng một người yêu ông ấy, một thợ làm giầy, đã bán ngôi nhà mình chỉ để thu xếp đồ ăn cho Bayazid và cho đệ tử của ông ấy; rằng người đó đã mời cả thị trấn tới ăn bởi vì thầy của người đó đã tới thị trấn này. Người đó đã bán mọi thứ, nói ngày mai sẽ chăm lo cho ngày mai.
Bayazid chấp nhận lời mời và tới, và ngồi xuống ăn. Các đệ tử đều lúng túng, họ thực sự bị bối rối. Họ có thêm một cái cớ để cảm thấy tiếc vì phí hoài kiếp sống của mình cùng với con người tham lam này, Bayazid, người bị quá ám ảnh với việc ăn thức ăn ngon đến mức ông ấy xé bỏ lời nguyện nhịn ăn. Bayazid bắt đầu tận hưởng thức ăn với niềm thích thú lớn. Khi Bayazid ăn, các đệ tử cũng phải ăn. Nhưng Bayazid thấy vui thích trong việc ăn, trong khi các đệ tử lại chịu đựng việc phá bỏ nhịn ăn của mình.
Muộn trong đêm, khi mọi người đã đi, các đệ tử xô lại Bayazid và nói với ông ấy, “Phải có giới hạn chứ! Chúng tôi đã không trông đợi điều này từ thầy. Thầy đã quên rồi sao? Thầy đã quên về nhịn ăn rồi sao? Hay thức ăn này hấp dẫn thầy nhiều thế?”
Bayazid đáp, “Vấn đề không phải là thức ăn - chúng ta có thể kéo dài việc nhịn ăn của mình thêm một ngày nữa. Nhưng người nghèo này, người đã bán mọi thứ để thu xếp thức ăn cho chúng ta sẽ cảm thấy bị tổn thương nếu chúng ta nói về việc nhịn ăn của mình. Điều đó sẽ là tội lỗi. Thật vô ích mà đi nói về điều đó; chúng ta có thể kéo dài việc nhịn ăn của mình thêm một ngày, có hại gì trong việc đó đâu? Tại sao cứ quả quyết tính thiêng liêng của mình mạnh mẽ thế? Và cẩn thận! - có những hoàn cảnh khi người ta muốn khẳng định tính thiêng liêng của mình.”
Điều này là rất tinh tế. Và đó là một cơ hội tốt - cả thị trấn sẽ nhận ra rằng Bayazid thực sự là thánh nhân - nhưng ông ấy đã buông bỏ cơ hội này để trở nên nổi tiếng là một thánh nhân vĩ đại. Thậm chí không có một nhắc nhở nhỏ nhất nào rằng họ đang trong kì nhịn ăn.
Điều này tôi gọi là lòng tốt, điều này tôi gọi là người sattvik – người có lòng tốt. Ngay cả khi ngoan đạo phải được công bố, phải được quảng cáo, hay trông đợi được kính trọng, nó trở thành bệnh tật.
Hiền nhân này đã gọi đức độ là bệnh tật thứ năm. Tội lỗi là bệnh tật trên toàn thế giới, đức độ là bệnh tật chỉ ở Ấn Độ. Ngay cả đức độ cũng là tội lỗi, đức độ là bệnh tật, bởi vì cái cảm giác rằng “Mình đã làm điều tốt” tạo ra bản ngã tinh tế, và cảm giác này rằng “Mình có thể làm điều tốt,” tạo ra bản ngã như một người làm. Tại Ấn Độ người ta hiểu rằng trong thế giới này chẳng cái gì là tội lỗi ngoại trừ bản ngã. Đó là lí do tại sao bất kì cái gì tạo ra bản ngã cũng đều trở thành tội lỗi.
Bồ đề đạt ma tới Trung Quốc từ Ấn Độ. Nhiều khất sĩ Phật tử đã sang Trung Quốc - hàng nghìn và hàng nghìn khất sĩ. Hoàng đế Vũ đã chi hàng triệu bạc cho việc dịch kinh sách Phật giáo, ông ấy đã xây dựng hàng trăm chùa chiền. Thế rồi tin lan tới là Bồ đề đạt ma, con người của trí huệ tối thượng đã tới, cho nên Hoàng đế Vũ ra tận biên cương của vương quốc để nghênh đón ông ấy. Ngay sau nghêng đón, Hoàng đế Vũ hỏi Bồ đề đạt ma câu hỏi đầu tiên của mình: “Quả nhân đã xây dựng nhiều chùa chiền, nhiều nhà khách, chi tiêu hàng triệu hàng triệu bạc; quả nhân đã cho dịch kinh sách Phật giáo và nuôi dưỡng hàng nghìn khất sĩ mỗi ngày. Quả nhân sẽ được thưởng gì về tất cả những việc làm đức độ này?”
Bồ đề đạt ma đáp, “Ông sẽ xuống địa ngục, thẳng xuống địa ngục.”
Vũ hỏi ông ấy, “Ông nói gì vậy? Địa ngục sao? Ông đùa à?”
Không khất sĩ nào đã dám nói điều này, trong thực tế mọi khất sĩ đều đã nói rằng nhà vua là con người vĩ đại và đức độ. Họ phải đều là kẻ ăn xin, không phải khất sĩ. Bằng việc nói với nhà vua, “Bệ hạ là người vĩ đại và đức độ,” những kẻ ăn xin này có thể xoay xở kiếm được phương tiện sinh sống từ nhà vua.
Họ tất cả đều nói, “Bệ hạ là người vĩ đại và đức độ; không ai đã từng làm việc từ thiện nhiều thế. Biển tên của bệ hạ sẽ được khắc bằng chữ vàng trên thiên đình, cung điện của bệ hạ đã được chuẩn bị bên cạnh chính Thượng đế....”
Bồ đề đạt ma nói, “Ông sẽ đi thẳng xuống địa ngục.”
Phát biểu của Bồ đề đạt ma đã không hấp dẫn Vũ. Điều đó sẽ không hấp dẫn cho bất kì người đức độ nào, rằng đức độ cũng là tội lỗi.
Vũ nói, “Quả nhân không thể chấp nhận được lời của ông.”
Bồ đề đạt ma nói, “Thế thì ta từ chối vào vương quốc tội lỗi của ông, ta quay về. Ta sẽ ở ngoài vương quốc của ông. Cái ngày ông biết rằng đức độ cũng là tội lỗi, ta sẽ vào.”
Bằng cách nào đó điều này tất cả đã bị bỏ qua và quên mất. Vũ trở thành chống đối Bồ đề đạt ma, và các sư khác cũng quay sang chống lại ông ấy... họ đã phó thác hi vọng của mình vào ông ấy, rằng việc tới của ông ấy sẽ mở rộng công việc. Hoàng đế đã sẵn lòng, nhưng Bồ đề đạt ma làm hỏng mọi sự.
Sau mười năm Vũ đã trên giường chết, và khi nỗi sợ bắt giữ ông ấy thì ông ấy nhớ tới Bồ đề đạt ma. Ông ấy có thể thấy rằng mặc cho biết bao nhiêu việc làm đức độ mà cái chết với ông ấy cũng là một như cái chết của kẻ tội lỗi, ông ấy già yếu hom hem trong tuổi già như bất kì kẻ tội nhân nào cũng vậy. Sau khi làm bao nhiêu việc làm đức độ vẫn chẳng có an bình vào lúc chết, cho nên làm sao ông ấy lại có thể an bình được sau cái chết? Tâm trí hoàng đế rất bối rối.
Ông ấy cho mời Bồ đề đạt ma đến: “Mời ông ấy lại, ta đã phí hoài mười năm. Hôm nay ta cũng cảm thấy rằng ta đang đi thẳng xuống địa ngục.”
Nhưng Bồ đề đạt ma cũng đã chết. Tuy nhiên ông ấy có một thông điệp được viết trên nấm mồ mình, biết rằng “Nếu không phải hôm nay, ngày mai, hay vào thời điểm chết, Hoàng đế Vũ sẽ nhớ tới ta.” Bởi vì tự lừa dối mình thì dễ trong khi người ta còn sống, khi người ta còn đang vui vẻ phấn chấn và dưới tác động của ảo tưởng của cái gọi là cuộc sống. Người ta hiểu ra tình huống thực chỉ khi cái chết tiến tới.
Bồ đề đạt ma đã nói, “Vũ sẽ nhớ tới ta vào lúc chết của ông ấy. Cho nên đây là thông điệp của ta cho hoàng đế, ghi điều đó lên nấm mộ của ta: ‘Ông đã làm việc thiện cả đời mình. Nếu ông có thể buông bỏ những việc thiện đó ngay từ bây giờ, vào lúc chết, cánh cửa của thiên đình là rất gần.’” Vứt bỏ gắn bó của bạn với việc mang tính đức độ. Bạn đã vứt vỏ nhiều thứ để được đức độ, bây giờ vứt bỏ ngay cả cái đức độ đó.
Điều đó là rất khó. Rất dễ vứt bỏ dây xích sắt, nhưng rất khó vứt bỏ dây xích vàng, chúng có vẻ giống như đồ trang sức. Và đức độ! - cái gì còn vàng son hơn đức độ đây? Nó là vàng ròng, người ta không dám vứt nó đi. Nhưng ai đó người nhận ra rằng dây xích vẫn cứ là dây xích thì thấy chẳng có gì phân biệt giữa xích sắt và xích vàng cả. Các bức tường nhà tù có thể được trang hoàng như tường lâu đài, điều đó cũng chẳng tạo ra khác biệt gì. Bản ngã là nhà tù, do đó hiền nhân này đã nói về năm bệnh tật.
Chừng nào người ta còn chưa biết tới đặc trưng của năm bệnh tật này, chừng nào người ta còn chưa đi vào trong bản chất của năm bệnh tật này, người ta không thể nào thoát khỏi được chúng. Trong thực tế không có cách nào để gạt bỏ đi bất kì cái gì ngoại trừ bằng việc biết nó. Việc biết một mình nó là tự do, việc biết một mình nó là giải thoát. Ngay khi chúng ta biết một điều trong tính toàn bộ của nó, chúng ta trở nên tự do với nó.
Dốt nát là tù túng, không hiểu biết là tù túng. Tự do xảy ra với hiểu biết. Giận dữ chiếm hữu chúng ta trong khi chúng ta không biết nó. Ngày chúng ta biết giận dữ của mình, ngày chúng ta đi vào trong các tầng của nó, ngày chúng ta thấy giận dữ trong sự trần trụi của nó, chúng ta được tự do khỏi giận dữ.
Sau việc biết thì chẳng cái gì còn cần được làm về tự do nữa: cố hiểu trí huệ sâu sắc này của các nhà tiên tri phương Đông. Không phải là trước hết bạn cần biết giận dữ là gì và thế rồi bạn phải làm điều gì đó để vứt bỏ giận dữ - không. Khái niệm phương Đông là ở chỗ việc biết là tự do, chẳng cái gì cần được làm bên ngoài việc biết. Nếu việc làm là cần thậm chí sau việc biết, điều đó nghĩa là việc biết vẫn còn chưa đầy đủ.
Các bệnh tật tâm lí không đòi hỏi trước hết phải chẩn đoán rồi mới chữa. Bản thân chẩn đoán chúng là việc chữa rồi. Tại sao? Bởi vì các bệnh tâm lí là do dốt nát, chúng không có nguyên nhân khác.
Chẳng hạn, trời tối và trong bóng tối này có rắn và bọ cạp. Thế rồi bạn thắp đèn lên. Bây giờ hai bước phải xuất hiện. Tất cả rắn và bọ cạp bây giờ sẽ trở thành thấy được, mặc dầu chúng sẽ chưa biến mất bởi vì chúng không chỉ là tác động của bóng tối, bóng tối chỉ là nguyên nhân của việc không thấy được chúng. Nhưng bây giờ trời không tối và rắn là thấy được. Tuy nhiên không ai có thể nói rằng rắn đã biến mất chỉ bởi vì đèn đã được thắp sáng; bước tiếp là ở chỗ rắn và bọ cạp phải bị loại bỏ. Cho nên một mình việc hiểu chưa đủ, cái gì đó thêm nữa cần được làm, một bước nữa cần tham dự vào.
Nhưng một điều nữa đang xảy ra bên cạnh: khi đèn được thắp sáng, bạn có loại bỏ bóng tối đi không? Bạn có bao giờ tự hỏi: Được rồi, đèn đã thắp sáng, nhưng bây giờ làm sao tôi loại bỏ đi bóng tối được? Không, nguyên nhân của bóng tối là việc thiếu vắng ánh sáng.
Đau ốm thể chất yêu cầu cả chẩn đoán và chữa chạy. Nhưng với các bệnh tật của tâm thức thì bản thân chẩn đoán là việc chữa chạy... ngọn đèn được thắp sáng và bóng tối ra đi. Bệnh tật của tâm thức cũng giống thế này.
Hiền nhân này nói:
Khi linh hồn được hiện thân bị đồng nhất
với bản chất của năm nút này,
thì nó không thể tự do khỏi chúng
mà không tự hiểu mình.
Chúng ta làm gì? Chúng ta trở nên bị đồng nhất với chúng và chúng ta thu được các thuộc tính của chúng. Làm những hành động đức độ chúng ta trở thành đức độ, thường xuyên làm những hành vi thiện chúng ta trở thành thiện, thực hiện những hành vi ác chúng ta trở thành tội nhân - bất kì điều gì chúng ta làm, chúng ta đều trở thành một với nó. Sự đồng nhất này bản thân nó là dốt nát của bạn. Nếu bạn muốn biết, cần phải đứng ra từ một khoảng cách. Một chút ít khoảng cách, một chút ít lỗ hổng là cần để biết. Trong thực tế chúng ta chỉ có thể biết cái mà chúng ta thấy từ một khoảng cách, bằng không thì chúng ta không thể biết được. Bất kì điều gì chúng ta muốn biết, trước hết phải được đặt trước mắt chúng ta để quan sát.
Nếu bạn muốn biết giận dữ, điều đó là không thể biết được khi bạn bị đồng nhất với giận dữ. Giận dữ chỉ có thể được biết sau khi tách bạch giận dữ ra khỏi bản thân người ta, bằng việc vượt ra ngoài giận dữ để nhìn vào nó một cách trung lập, như chúng ta làm với một vật... giống như nhà khoa học trong phòng thí nghiệm của mình quan sát một sự vật từ một khoảng cách.
Thiền là khoa học của việc đặt bản thân người ta ra một khoảng cách. Việc nhìn vào bệnh tật tâm trí của riêng mình từ một khoảng cách, và đi hoàn toàn vào trong những cái nút này, trở thành sự giải thoát.
Vì năm nỗi ưu phiền này linh hồn giống như bệnh tật tinh vi,
nên linh hồn được biết tới như ling sharir,
sự đồng nhất thân thể.
Đây là nút trong tim.
Đó là bệnh tật cơ bản của trái tim. Bệnh này thực tế là bệnh nơi chúng ta bị mắc kẹt. Năm bệnh này cùng nhau tạo ra một bệnh, và bệnh đó là sự đồng nhất - chúng ta trở thành một với điều chúng ta làm. Ăn cắp, chúng ta trở thành kẻ cắp; thiền, chúng ta trở thành con người tâm linh; chúng ta trở thành một với điều chúng ta làm, chúng ta không thể vẫn còn tách rời khỏi nó.
Nếu chúng ta hiểu điều này đúng, đây là ý nghĩa của tính chất sannyas: trong khi chúng ta đang làm bất kì cái gì chúng ta không trở thành người làm, chúng ta chỉ vẫn còn là người quan sát. Ý nghĩa cơ sở của tính chất sannyas là ở chỗ chúng ta thực hiện các hành động, nhưng chúng ta lại không trở nên bị dính líu với chúng nhiều hơn là một diễn viên. Chúng ta có thể đóng một vai trong vở kịch sân khấu, nhưng ngay khi chúng ta rời sân khấu, chúng ta bỏ vai diễn mình vừa đóng. Diễn viên bỏ lại vai diễn của mình đằng sau. Khi người đó nằm trên giường người đó không tự hỏi về điều gì có thể xảy ra bây giờ cho quí bà chính đã gặp rắc rối trong vở kịch. Nhưng đôi khi những ảo tưởng như vậy vẫn xảy ra.
Tôi đã nghe nói rằng có lần rắc rối xảy ra trong vở kịch về câu chuyện cuộc sống của thần Rama.
Diễn viên đóng vai Ravana, một tá điền, đã đóng vai đó hàng năm và cô gái đóng vai Sita, vợ Rama, cũng đã đóng vai của mình trong nhiều năm. Mọi năm anh ta đều đóng vai Ravana, bắt cóc Sita và giam giữ cô ta trong khu Vườn Ashoka của mình - cùng trò chơi tinh nghịch mọi năm. Nhưng chàng diễn viên này lại đâm ra yêu cô gái kia.
Vở kịch Ramaleela đã xảy ra lần nữa. Khi tới phần buổi lễ mà trong đó Sita sẽ chọn chồng, Ravana cũng tới như một người cầu hôn có thể trong buổi lễ. Thế rồi các sứ giả tới với tin tức rằng lửa đã bùng ra ở Lanka, kinh đô vàng của Ravana. Nhưng Ravana đáp lại, một cách bất ngờ, “Mặc xác đám cháy đấy! Lần này, ta sẽ không đi đâu nếu không cưới nàng.” Anh ta cầm lấy cái cung của Thần Shiva vẫn được dành cho việc thử để tìm ra người cầu hôn đúng và bẻ nó vụn thành từng mảnh.
Janak, bố của Sita, lâm vào tình thế khó khăn; điều này không có trong vở kịch, nó là một vấn đề bất ngờ. Công chúng cũng bị ngơ ngác - điều gì đang diễn ra vậy? Điều gì sẽ xảy ra bây giờ? - Sita có lấy Ravana không? Nhưng Janak là một người lão luyện và có kinh nghiệm. Anh ta đã đóng vai của mình trong nhiều, nhiều năm cho nên anh ta có thể ứng khẩu luôn. Anh ta gọi những người hầu tới và quát lên , “Sao chúng mày lại để cung và tên đồ chơi cho trẻ con ở đây? Hãy đem cái cung thật của Thần Shiva lại đây.” Màn hạ xuống, và diễn viên khác được đem vào để đóng vai Ravana... bởi vì diễn viên ban đầu vẫn còn la hét rằng anh ta sẽ không đi nếu không cưới Sita.
Bây giờ anh chàng đáng thương đóng vai Ravana này phải không ngủ ngon được ban đêm. Với anh ta chuyện diễn không còn là vấn đề đóng kịch nữa, nó đã trở thành cái gì đó rất thật!
Tính chất sannyas nghĩa là buông bỏ sự đồng nhất tinh tế này với thân thể. Nó có nghĩa là trạng thái mà bạn đã tạo ra bằng việc đồng nhất bản thân mình với những bệnh này, như bạn dường như là vậy, sự đồng nhất thân thể đó phải ra đi.
Cái chiếu sáng tại đó khi tâm thức
là kshetragya, người biết.
Người biết, nhãn quan người biết, cảm nhận nó tất cả ở bên trong sự đồng nhất thân thể này. Nhưng chúng ta không nhận biết về nó chút nào; người biết này bị lạc trong số tất cả những cái chúng ta biết. Phát hiện ra người biết đó là khoa học của tôn giáo.
Câu hỏi này đã được hỏi: Ai là sakshi, nhân chứng? Ai là kootastha, người ngụ ở chỗ sâu nhất? Ai là antaryami, người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác?
Ba người này là các chiều của linh hồn trong ba hoàn cảnh khác nhau. Điều đó giống thế này: bạn là bố trong quan hệ với con bạn, là chồng trong quan hệ với vợ bạn, là con trong quan hệ với bố bạn. Giữa các bạn bè thì bạn không nằm trong những quan hệ này. Trong văn phòng bạn thậm chí không là bạn, nhưng mặc cho tất cả những điều này bạn là một và cùng một người.
Sakshi, kootastha và antaryami là tên của các chiều hướng trạng thái khác nhau của linh hồn. Tất cả ba đều không là gì khác ngoài linh hồn, nhưng ba từ này được dùng trong ba hoàn cảnh khác nhau. Cố hiểu các hoàn cảnh.
Người biết việc sinh
và sự tan biến của người biết, việc biết
và đối tượng của việc biết,
thì là bản thân mình không có sinh hay tan biến,
sự tự toả sáng này được gọi là sakshi, nhân chứng.
Nếu bạn đi vào trong bản thân mình, bất kì cái gì bạn đi tới biết, bạn cũng không thể là cái đó. Nhớ lời kinh này: bất kì điều gì bạn có thể biết, bạn không thể là cái đó, bởi vì bạn bao giờ cũng là người biết. Cho nên điều đó nghĩa là bất kì điều gì bạn biết, bạn đều đứng đằng sau hiểu biết đó, bằng không bạn sẽ không biết nó. Bất kì điều gì có thể được biết, bạn đều không thể là cái đó. Nguyên lí cơ bản, nền tảng, mật chú hạt mầm của sadhana yoga, công phu thiền, là: bạn không thể là cái bạn biết.
Bạn có thể biết khi bạn nhắm mắt rằng thân thể vật lí của mình tồn tại quanh mình. Bạn có thể biết, bạn có thể cảm thấy cái đau của gai mắc vào chân bạn; bạn có thể biết nhịp tim mình đập - bạn có thể biết tim mình đang đập nhanh khi bạn lo âu, bạn có thể cũng biết nhịp tim chậm đi khi bạn an bình. Cho nên người biết là khác với nhịp tim, khác với cái đau ở chân, khác với hình dạng của thân thể này, bởi vì nhị nguyên là cần thiết để biết.
Nhị nguyên là điều tiên quyết cho việc biết, lỗ hổng là cần để biết. Việc biết xảy ra bởi vì lỗ hổng đó, bằng không thì không có việc biết. Đó là lí do tại sao khi bạn nhìn vào bóng mình trong gương, bạn phải giữ một khoảng cách nào đó. Nếu bạn tới rất gần và bạn đặt đầu mình vào gương, sẽ khó thấy bóng mình trong gương. Bạn có thể thấy một chút ít bởi vì vẫn còn lỗ hổng, nhưng bạn càng thu nhỏ khoảng cách, lỗ hổng, càng khó thấy được cái gì. Nếu không có lỗ hổng nào giữa bạn và gương, bạn sẽ không thể nào thấy được cái gì cả. Khoảng cách nào đó là cần cho việc biết, hay thấy.
Hiền nhân này nói: Tất cả những cái được sinh ra, được tạo ra và bị phá huỷ, tất cả những điều này được biết bởi người ngụ bên trong.
Trong đêm, khi giấc ngủ bắt đầu hạ xuống, bạn sẽ biết nó đang hạ xuống. Một điều là chắc chắn: bạn không phải là giấc ngủ, bằng không thì ai biết nó? Người mà giấc ngủ đang hạ xuống phải tách rời khỏi nó.
Vào buổi sáng bạn ngồi cạnh cửa, mặt trời đã lên, ánh nắng lan trải; bạn biết mặt trời đang chói sáng. Thế rồi mặt trời lên trên bầu trời và hơi nóng tăng lên, thế rồi mặt trời ở trên đầu bạn, trưa rồi. Bạn không phải là buổi trưa, không là buổi sáng. Thế rồi đến tối mặt trời lặn, bóng tối buông xuống; bạn nhận biết về bóng tối buông xuống, điều có nghĩa là bạn không phải là bóng tối.
Buổi sáng xảy ra, buổi trưa xảy ra, thế rồi buổi tối tới; bạn biết mặt trời lên, khi nó ở trên đỉnh, và mặt trời lặn. Bạn không thể là một với mặt trời được, bạn là tách rời với nó. Tương tự, bất kì cái gì xảy ra trong cuộc đời bạn đều được biết tới bởi một người ngụ bên trong. Và điều thú vị là ở chỗ bạn không bao giờ có thể bắt giữ được người biết này.
Cố hiểu.... Bạn có vết đau ở chân. Bạn biết rằng có cái đau ở chân mình, cho nên người biết đã trở nên tách rời với cái đau ở chân. Bây giờ bạn cũng có thể biết rằng bạn biết cái đau ở chân. Bây giờ bạn đã đi ra đằng sau việc biết này. Cố hiểu điều đó cho đúng: bạn có chỗ đau ở chân, bạn biết cái đau trong chân, do đó việc biết của bạn là tách rời với cái đau ở chân bạn. Nhưng bạn cũng biết rằng bạn biết cái đau ở chân. Thế thì việc biết thứ hai này đã đi ra đằng sau việc biết thứ nhất.
Bạn có thể biết ngay cả việc biết này, cái sẽ là việc biết thứ ba. Và thế thì ngay cả việc biết này cũng có thể được biết - điều đó sẽ là việc biết thứ tư. Một điều là chắc chắn, rằng bất kì cái gì bạn biết, bạn có thể đi lùi lại từ đó; bạn sẽ không bao giờ bị bắt trong bất kì việc biết nào, bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn là người biết, không phải là cái biết được. Người biết tối thượng này, cái ta chứng kiến tối thượng này đằng sau mọi việc biết, chính là điều bí ẩn. Nó rất bí ẩn.
Có lẽ đây là bí ẩn sâu sắc nhất trong cuộc sống, rằng chúng ta không thể thu bản thân mình thành một vật, cái được quan sát, bằng bất kì phương tiện nào; chúng ta bao giờ cũng vẫn còn là người biết, người quan sát. Đó là lí do tại sao một người như Mahavira, một người đã tìm kiếm sâu về cái ta chứng kiến tối thượng, đã nói rằng thật vô nghĩa mà nói rằng vẫn còn người biết trong trạng thái tối thượng của bản thể, chỉ việc biết là tồn tại ở đó. Bởi vì cho dù chúng ta có duy trì ở đó một người biết, người biết mọi việc, chúng ta lại đi tới biết người biết đó, chúng ta đã lùi xa đằng sau nó. Chúng ta chỉ nên nói rằng đơn giản chỉ có việc biết. Cho nên Mahavira đã gọi trạng thái tối thượng này là keval gyan, chỉ việc biết; thậm chí không người biết, không cái được biết, chỉ việc biết - việc biết thuần tuý. Và việc biết thuần tuý này cứ lùi xa mãi đằng sau mỗi việc biết.
Người biết bí ẩn này, người kinh nghiệm bí ẩn này, đã được gọi là sakshi, cái ta chứng kiến. Cái ta là nhân chứng, bởi vì người biết, cái biết và việc biết, tất cả ba đều được sinh ra từ nó và tan biến vào trong nó, nhưng nhân chứng bao giờ cũng còn lại đứng ngoài.
Trong tiếng Anh có một từ, một từ rất quí, ‘ecstasy’ (trạng thái mê li), giúp cho người ta hiểu khái niệm về cái ta chứng kiến. Ecstasy tại gốc của nó nghĩa là, 'đứng ra ngoài'. Ecstasy nghĩa là, ở ngoài đó. Dù bạn có cố gắng theo bất kì cách nào, cũng không có cách cho bạn ở bên trong kinh nghiệm này; bạn bao giờ cũng ở ngoài cái có thể được kinh nghiệm. Bất kì khi nào bạn đứng, bạn đều 'đứng ngoài'.
Đó là lí do tại sao các nhà huyền môn phương Tây dùng từ ‘ecstasy’ cho samadhi, việc thức tỉnh tối thượng. Ecstasy nghĩa là cái ta chứng kiến. Ecstasy không nói tới samadhi, nó nói tới việc chứng kiến. Bạn có làm cái gì cũng chẳng thành vấn đề, bạn cố gắng bao nhiêu, cũng không có cách nào bạn có thể làm cho cái ta chứng kiến khác hơn bản thân nó, nó vẫn còn là nhân chứng.
Đây là một định nghĩa tình huống của linh hồn.
Mọi định nghĩa đều mang một chiều hướng đặc thù. Đó là lí do tại sao không một định nghĩa nào có thể truyền đạt được toàn thể bản chất của linh hồn, và điều đó cũng là lí do tại sao lại có nhiều khác biệt thế giữa các tôn giáo. Không có các lí do nền tảng cho những sự khác biệt này - tôn giáo này nhấn mạnh vào định nghĩa này của linh hồn tương ứng theo chiều này, trong khi tôn giáo khác lại nhấn mạnh định nghĩa khác theo chiều khác. Những định nghĩa này sẽ có vẻ là khác nhau. Theo nghĩa này thì Upanishads vượt ra ngoài tất cả các tôn giáo bởi vì chúng chấp nhận mọi định nghĩa. Định nghĩa này về cái ta chứng kiến do triết học Jaina, tôn giáo Jaina đưa ra.
Câu hỏi thứ hai là: Kootastha, cái không thể huỷ diệt nổi, là gì? Hiền nhân này nói:
Cái cư ngụ trong tâm thức
của mọi sinh linh sống,
từ Brahma, vị thần sáng tạo,
tới con sâu bọ nhỏ nhất, và cái còn lại
ngay cả khi tất các những thân thể thô và tinh không còn nữa,
được gọi là kootastha, cái không thể huỷ diệt nổi.
Cái còn lại... cái còn lại ngay cả sau sự huỷ diệt của mọi thể được gọi là linh hồn kootastha - cái bao giờ còn lại. Làm bất kì cái gì bạn muốn, nó vẫn còn lại.
Ngay cả khoa học cũng chấp nhận rằng vật chất có một dạng kootastha bởi vì vật chất là không thể huỷ diệt nổi, chúng ta không thể phá huỷ được nó. Chúng ta có thể thay đổi hình dạng của nó, nhưng điều đó không phải là huỷ diệt - nó là sự biến đổi. Trạng thái kootastha của vật chất bao giờ cũng còn lại, và Upanishad nói rằng tâm thức nữa cũng có trạng thái kootastha vốn là vĩnh hằng.
Bạn có thể là đứa trẻ, thanh niên, ông già; bạn có thể trở thành tội nhân hay người đức độ; bạn có thể bỏ mọi tội lỗi của mình, từ bỏ giá trị tôn giáo của mình, từ bỏ đam mê của tuổi xuân, trở thành già cả, vẫn còn trong thân thể hay rời khỏi thân thể - làm bất kì cái gì bạn mong ước - nhưng sau khi tất cả những điều này đã bị phá huỷ, cái vẫn còn lại, cái không thể huỷ diệt được, là kootastha.
Đây là định nghĩa thứ hai về linh hồn. Điều này nữa cũng thuộc vào một hoàn cảnh đặc biệt; đây là từ khía cạnh của cái huỷ diệt được và cái không huỷ diệt được; điều này được gọi là kootastha. Trong chiều của hiểu biết nó là sakshi, nhân chứng, còn trong chiều của cái không thể huỷ diệt nổi thì nó là kootastha, cái không thể huỷ diệt nổi.
Chỉ như một sợi chỉ xuyên qua từng hột của chuỗi hạt,
linh hồn len vào từng tế bào của thân thể
để cho nó có thể trở nên nhận biết về bản tính đúng của mình
từ trong các đặc trưng khác nhau.
Cái một này được gọi là antaryami,
người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác.
Hai định nghĩa trước có hơi chút quá xa xôi với bạn, bởi vì là nhân chứng là trạng thái tối thượng của việc biết và để đạt tới trạng thái của cái không thể huỷ diệt nổi, bạn phải hoàn toàn sẵn sàng chết như bạn hiện hữu.
Để biết nhân chứng người ta phải đi sâu vào trong sự thuần khiết của việc biết tối thượng nơi không sự vật nào còn lại và chỉ người biết còn lại, nơi không có gì còn lại để được biết, chỉ người biết còn lại. Đây là một quá trình rất gay go của việc loại trừ - cứ phủ nhận bất kì cái gì bạn đi tới biết, vứt đi bất kì cái gì trở thành đối tượng của hiểu biết.
Điều thú vị là để ý rằng mặc dầu bạn đã bắt đầu cuộc hành trình của mình để biết, bất kì cái gì bạn biết cũng sẽ phải được vứt đi, chỉ thế thì việc biết tối thượng mới xảy ra. Bất kì cái gì trở thành kinh nghiệm, nói, “Nó là vô dụng.” Đấy là kỉ luật gian truân! Bất kì cái gì trở thành một phần của kinh nghiệm của bạn, tuyên bố nó là vô dụng. Cho dù kinh nghiệm về điều thiêng liêng xảy ra, trở nên nhận biết rằng, “Mình là cái ở bên ngoài cái đó,” bởi vì bất kì cái gì có thể trở thành kinh nghiệm, "Mình không phải là cái đó.”
Cho nên Mahavira và Phật đơn giản phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế; họ nói bất kì cái gì có thể được kinh nghiệm đều không phải là nó.
Mọi người nói rằng họ đã kinh nghiệm Thượng đế, rằng họ đã thấy Thượng đế, rằng họ đã có thoáng nhìn về Thượng đế. Nếu bạn đã có thoáng nhìn về Thượng đế, một điều là chắc chắn: rằng bạn thậm chí chưa có thoáng nhìn về cái ta riêng của mình, bởi vì bất kì cái gì bạn có thể thấy đều trở thành một vật, người khác, và bạn vẫn còn ở ngoài nó. Cho nên ở đây bạn thậm chí đã vượt ra ngoài Thượng đế!
Chắc chắn bất kì điều gì bạn đã thoáng nhìn, đã kinh nghiệm, đều phải là tưởng tượng riêng của bạn, không phải Thượng đế. Thượng đế là nhân chứng vĩnh hằng, điều thiêng liêng. Ngài được biết tới khi tất cả các kinh nghiệm tan biến đi. Nói về kinh nghiệm về Thượng đế là dốt nát. Không thể có kinh nghiệm về Thượng đế được. Ngay cả nói như vậy cũng là vô dụng. Nó là biến mất của tất cả các kinh nghiệm.
Cho nên một người như Phật trở thành không thể nào hiểu được với chúng ta bởi vì ông ấy đưa ra lời phát biểu tối thượng. Ông ấy phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn và giải thoát, bởi vì bất kì cái gì trở nên được biết thì đều vô dụng, và cái mà không được biết, dùng từ nào, làm sao cho nó cái tên? - cho nên Phật vẫn còn im lặng.
Bất kì khi nào ai đó hỏi Phật về cái thực sự tồn tại, ông ấy sẽ đáp, “Nếu ta nói điều gì đó thì nó cũng trở thành một vật, do đó ta sẽ không nói về nó.” Ông ấy gợi ý cứ phủ định mọi kinh nghiệm và mọi đối tượng của hiểu biết. Theo cách này, một ngày nào đó bạn sẽ đi tới một điểm nơi không cái gì còn lại cả.
Thật khó để điều này được hiểu: chúng ta tìm tòi để đạt tới cái gì đó, còn Phật nói rằng chẳng cái gì còn lại cả. Điều đó nghĩa là gì? Điều đó không có nghĩa là không có gì, nhưng có nghĩa là không có gì còn lại để được biết, không cái gì được kinh nghiệm, không cái gì được nhận ra - không đối tượng biết được, không người biết và không tri thức. Bộ ba của việc biết biến mất, nhưng cái còn lại là tất cả.
Nhưng những định nghĩa này có chút xa xôi với bạn. Định nghĩa thứ ba mà có thể cảm thấy gần hơn cho bạn là: Cái đang sống trong từng tế bào của thân thể, len qua năm thể như sợi dây xuyên qua những hạt của chuỗi hạt, chìm trong năm bệnh tật, làm rối rắm trong thế giới....
Chỉ các hạt là của thế giới; sợi dây bao giờ cũng là của linh hồn. Chỉ các hạt mới là của thân thể, của bệnh tật; sợi dây bao giờ cũng là của linh hồn. Điều quan trọng nhất trong chuỗi hạt là sợi dây. Các hạt không thể làm ra vòng hạt được nếu không có sợi dây; hạt sẽ lăn ra khắp chỗ, vòng hạt sẽ tản mác. Sợi dây là mối nối giữ chúng lại với nhau. Nhưng sợi dây là không thấy được, chỉ các hạt mới là thấy được. Cho nên bất kì ai chưa thấy vòng hạt được làm ra sẽ không hiểu sự tồn tại của sợi dây nếu vòng hạt bỗng nhiên được đặt trước người đó; người đó sẽ chỉ thấy các hạt vì sợi dây là không thấy được, nó ẩn kín bên trong các hạt.
Chúng ta cũng trong cùng tình huống: thân thể là thấy được nhưng sợi dây lại không. Mọi thứ là thấy được trừ sợi dây, và chúng ta cứ nhảy từ hạt nọ sang hạt kia.
Những thân thể này là không thể có được nếu không có linh hồn - nhưng linh hồn là không thấy được. Thân thể này gần thân thể kia, hạt này gần hạt kia, đến mức bạn trượt từ hạt này sang hạt tiếp, sang hạt tiếp, và cứ bỏ lỡ sợi dây.
Dù chúng ta là cái gì bên trong tất cả những thân thể này, mọi bệnh tật này, ở đó linh hồn không chỉ là kootastha và sakshi, nó cũng là antaryami, người biết về tất cả những ý nghĩ và cảm giác. ‘Antaryami’ nghĩa là, nó là ở đây nữa. Chỗ kia, trong trạng thái tối thượng mà chúng ta gọi là nhân chứng, nó chắc chắn hiện hữu.
Khi chúng ta đi tới điểm của triệt tiêu tối thượng tất cả, cái còn lại chúng ta gọi là kootastha, cái không thể huỷ diệt nổi, bởi vì nó sẽ vẫn còn; nhưng nó ở đây nữa, bên trong chúng ta như chúng ta hiện hữu.
Tại đây nó là không thấy được, tại đây nó bị giấu kín dưới các hạt; tại kia nó sẽ hiện hữu mà không có các hạt che phủ, tại kia chỉ sợi dây còn lại. Tại đây có nhiều hạt và nó ở bên trong chúng, nhưng dầu vậy thì nó vẫn ở đây. Bởi vì cái mà tồn tại ở kia thì cũng phải ở đây nữa; bằng không đơn giản sẽ không có cách nào đạt tới đó. Do đó nó đã được nói:
Chỉ như một sợi chỉ xuyên qua từng hột của chuỗi hạt,
linh hồn len vào từng tế bào của thân thể
để cho nó có thể trở nên nhận biết về bản tính đúng của mình
từ trong các đặc trưng khác nhau.
Cái một này được gọi là antaryami,
người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác.
Bắt đầu cuộc hành trình từ người biết về tất cả những ý nghĩ và cảm giác, làm việc chứng kiến chìa khoá của nỗ lực tâm linh của bạn, và cái mà không thể bị huỷ diệt sẽ là cái đạt tới. Bắt đầu tại antaryami, thực hành sakshi, và kootastha là cái đạt tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét