CHƯƠNG 8. BIẾN MẤT CỦA NHÀ ẢO THUẬT
Câu hỏi thứ nhất
Cái gì quan trọng hơn, thực hành cuộc sống hay lí thuyết? Với một số người dốt nát như tôi, những người thường là người Cơ đốc giáo La Mã thực sự thành tâm, năm mươi tuổi, liệu có khả năng đạt tới chứng ngộ mà không phải mất nhiều thời gian để nghiên cứu tất cả những cái có giữa trời và đất không?
Điều thứ nhất: cuộc sống không thể được thực hành. Cái mà có thể được thực hành thì bao giờ cũng là lí thuyết. Cuộc sống phải được sống; không có cách nào để thực hành nó, không có cách nào để chuẩn bị và diễn tập nó. Cuộc sống mang tính tự phát. Chỉ các lí thuyết, giáo điều, triết học là được thực hành; chúng là không thực. Cái không thực phải được thực hành để cho bạn có thể tạo ra ảo tưởng về thực tại của nó. Cái thực phải được sống.
Nếu bạn tin vào lí thuyết tình yêu nào đó, thế thì bạn sẽ phải thực hành nó. Tình yêu không cần được thực hành, bạn có thể đơn giản nổi trong nó. Trong tình yêu bạn sẽ phải vứt bỏ tất cả mọi lí thuyết về tình yêu, bằng không thì bạn sẽ không bao giờ trong tình yêu đâu. Và ở trong chiều dầy của cuộc sống, trong sự mãnh liệt và đam mê của cuộc sống, bạn sẽ phải vứt bỏ mọi triết lí của cuộc sống. Bằng không bạn sẽ vẫn còn bị che mờ trong lời của mình.
Vấn đề không nảy sinh ra từ cuộc sống; vấn đề nảy sinh từ Ki tô giáo, Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo. Vấn đề nảy sinh ra từ 'giáo'. Cuộc sống là rất đơn giản. Ngay cả con vật cũng có thể sống nó; nó phải đơn giản chứ. Ngay cả cây cối cũng đang sống nó; nó phải đơn giản chứ. Nó không thể rất phức tạp được; ngay cả chim chóc, ngay cả tảng đá và dòng sông cũng đang sống nó. Sao nó phải trở thành phức tạp thế với con người? - bởi vì con người có thể lí thuyết hoá về nó. Con người có thể thêu dệt và chăng tơ học thuyết quanh nó. Các học thuyết đó mang tính độc hại.
Nếu bạn là người Ki tô giáo, bạn không thể sống được. Nếu bạn là người Hindu giáo, không, cuộc sống không dành cho bạn. Để sống động bạn cần không là người Hindu giáo không là người Ki tô giáo. Người ta đơn giản cần hiện hữu, người ta cần chỉ hiện hữu.
Hai nhà thám hiểm đi qua khu rừng rậm thì một con sư tử dữ tợn xuất hiện ở đường mòn trước họ.
"Bình tĩnh nhé," nhà thám hiểm thứ nhất nói. "Nhớ điều chúng ta đã đọc trong cuốn sách đó về những con vật hoang dã: nếu bạn đứng tuyệt đối im lặng và nhìn thẳng vào mắt sư tử, nó sẽ quay đuôi và chạy mất."
"Tốt," nhà thám hiểm thứ hai nói. "Anh đã đọc cuốn sách đó, tôi đã đọc cuốn sách đó, nhưng nó đã đọc cuốn sách đó chưa?"
Sách vở tạo ra vấn đề, sách vở thách đố bạn. Và việc này rất ngớ ngẩn: chúng thách đố bạn nhân danh việc cố gắng làm sáng tỏ mọi thứ. Chúng thách đố bạn qua việc giải thích chúng. Bạn bị mắc vào trong những giải thích đó bởi vì bạn cho rằng chừng nào bạn còn chưa có lời giải thích, làm sao bạn sẽ sống được?
Bạn đã nghe giai thoại nổi tiếng về con rết đang bước đi chưa? Lúc đó là buổi sáng đầy ánh mặt trời và trời thì đẹp, và con rết đang sung sướng và phải đã ca hát từ trong tim. Nó đang đi, gần như say sưa với không khí buổi sáng.
Một con ếch ngồi bên cạnh đường đâm ra rất phân vân - nó phải đã là một triết gia. Nó hỏi, "Bác ơi, xin đợi đã! Bác đang làm phép màu đấy. Một trăm chân! Làm sao bác xoay xở được? Chân nào bước trước, chân nào bước thứ hai, thứ ba - vân vân và vân vân, cho tới chân một trăm! Bác không bị khó xử sao? Làm sao bác xoay xở được? Điều đó có vẻ như không thể được với ta."
Con rết nói, "Ta chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Để ta nghiền ngẫm đã." Và đứng đó, nó bắt đầu run rẩy và nó ngã nhào ra đất. Bản thân nó trở nên phân vân thế - những một trăm chân! Làm sao mà người ta quản lí được?
Triết lí làm tê liệt mọi người. Bạn bị tê liệt bởi các triết lí của mình. Cuộc sống không cần triết lí, cuộc sống là đủ với chính nó. Nó không cần nạng; nó không cần hỗ trợ, không cần ủng hộ. Nó là đủ với chính nó.
Đây là điều đầu tiên tôi muốn truyền đạt cho bạn; đây là hiểu biết của tôi, không phải là lí thuyết của tôi; đây là cách tôi cảm thấy cuộc sống là vậy. Nó không phải là thứ mang tính tâm trí, nó là kinh nghiệm tồn tại của tôi. Tin cậy vào cuộc sống đi. Và nếu bạn tin cậy vào cuộc sống, tôi gọi bạn là có tính tôn giáo. Tin cậy vào cuộc sống là tin cậy vào Thượng đế. Thượng đế trở thành lí thuyết; khi bạn làm tan biến lí thuyết đó thì chỉ cuộc sống là còn lại trong bí ẩn vô cùng của nó, lung linh huyền ảo, bao quanh bạn bên trong và bên ngoài.
Và bạn là một phần của nó, một phần của niềm cực lạc.
"Cái gì quan trọng hơn," người hỏi này đã hỏi, "thực hành cuộc sống hay lí thuyết?"
Thực hành được cần tới chỉ vì lí thuyết. Cuộc sống không cần thực hành. Bạn đơn giản phải sống nó mà không nghiền ngẫm, không đem tâm trí vào. Một khi bạn đem tâm trí vào bạn đã bắt đầu bóp méo cuộc sống.
"Với một số người dốt nát như tôi, liệu có khả năng đạt tới chứng ngộ không?"
Điều đó là có thể chỉ cho những người nhận ra dốt nát của mình - bởi vì những người đó là những người hồn nhiên, người nhận ra dốt nát của mình. Việc nhận ra dốt nát là chính cánh cửa dẫn tới chứng ngộ. Nếu bạn nghĩ bạn biết, thế thì bạn sẽ bị ngăn cản.
Các nhà bác học chưa bao giờ trở nên chứng ngộ - họ không thể thế được. Họ có quá nhiều tri thức. Họ giống như con lừa mang kinh sách - đó là điều Jalaluddin Rumi đã nói. Và con lừa vẫn còn là con lừa - dù nó có chở Koran trên lưng hay không thì cũng không thành vấn đề. Bạn có thể mang kinh sách trong kí ức của mình, nhưng kí ức không phải là tri thức. Ghi nhớ một điều không phải là biết nó. Ghi nhớ một điều là cách để tránh việc biết nó. Điều đó rất rẻ mạt. Máy tính có thể làm điều đó; không có gì mang tính con người về nó cả, chẳng có gì đặc biệt. Máy tính có thể làm điều đó tốt hơn. Mọi điều mà tâm trí có thể làm được thì máy tính có thể làm được tốt hơn. Cho nên không có gì đặc biệt về nó cả, chẳng cái gì có tính con người, chẳng cái gì có tính thiêng liêng. Nó là thứ máy móc.
Bạn có thể nhớ, bạn có thể ghi nhớ nhiều thông tin sẵn có, nhưng điều đó sẽ không ích gì cho bạn cả. Bạn có thể trở thành cuốn từ điển bách khoa toàn thư biết đi, như con lừa mang kinh Koran đó, chừng nào bạn còn chưa trở nên nhận biết rằng cuộc sống là bí ẩn để được sống, không phải là vấn đề để được giải quyết. Thế thì bạn tiếp cận theo cách hoàn toàn khác; cách tiếp cận này trở thành khác về chất. Thế thì bạn tiếp cận qua nhận biết, không qua tri thức. Thế thì bạn tiếp cận một cách trực tiếp, đi thẳng. Bạn nhìn vào cuộc sống mà không có mây mù nào cản trở mắt mình - Ki tô giáo, Mô ha mét giáo, Hindu giáo. Không mây mù; chỉ mắt thuần khiết, chỉ nhìn như đứa trẻ hồn nhiên...
Để trở thành đứa trẻ hồn nhiên đó, yêu cầu đầu tiên là hiểu rằng bạn là kẻ dốt nát. Đó là một trong những điều khó khăn nhất. Từ bỏ của cải là đơn giản, nhưng từ bỏ tri thức lại rất khó.
Nhiều người từ bỏ của cải: họ từ bỏ gia đình, nhà cửa, thế giới, nhưng họ không, họ chưa bao giờ từ bỏ tri thức của mình.
Tôi đã biết một người từ bỏ thế giới. Chúng tôi học cùng nhau trong đại học. Sau vài năm tôi bắt gặp anh ấy ở một thành phố; tôi lại thăm anh ấy. Anh ấy đã từ bỏ mọi thứ, anh ấy đã trở thành một sư Jaina. Tôi hỏi anh ta, "Anh vẫn là người Jaina à?"
Anh ta nói, "Sao không? Tôi là người Jaina, tôi được sinh ra là người Jaina."
Tôi nói, "Tôi tưởng anh đã từ bỏ mọi thứ rồi, nhưng tri thức anh vẫn giữ sao? Anh đã từ bỏ bố mẹ mình, nhưng lại đã không từ bỏ điều bố mẹ đã dạy anh. Đây là cái gì đó! Anh đã từ bỏ gia đình mình, nhưng anh vẫn mang ấn tượng tinh tế của gia đình. Đó chính là việc vẫn giữ tính chất người Jaina là gì! Nếu anh đã được nuôi dưỡng trong gia đình Mô ha mét giáo, anh chắc đã là người Mô ha mét giáo rồi. Nếu anh mà chưa bao giờ được bất kì ai nói cho rằng anh là người Jaina, thì anh đã không thể trở thành người Jaina được. Anh đã từ bỏ gia đình, anh nói thế. Anh nói, 'Tôi đã từ bỏ mẹ tôi, cha, vợ tôi, con tôi.' Thế thì sao anh còn mang tri thức do họ trao cho anh? Từ bỏ cả cái đó nữa!"
Anh ta có vẻ phân vân. Anh ta nói, "Cái đó thì khó."
Dễ dàng từ bỏ của cải bởi vì chúng là ở bên ngoài; tri thức là của cải bên trong. Dễ dàng từ bỏ những thứ trần gian bởi vì chúng giống như quần áo - bạn có thể không mặc quần áo. Nhưng từ bỏ tri thức lại giống như từ bỏ làn da bạn; nó không dễ dàng thế. Nó là đau đớn, rất đau đớn.
Và đau này tới từ đâu? Đau này tới từ bản ngã - bởi vì tri thức là thức ăn cho bản ngã. Nó là thức ăn tinh tế cho bản ngã. Bạn càng biết nhiều, bạn càng cảm thấy mạnh hơn.
Huân tước Bacon đã nói, "Tri thức là sức mạnh." Rất khó từ bỏ quyền lực. Tiền nữa cũng mạnh, nhưng không là gì khi so với tri thức - bởi vì tiền có thể bị cướp: chính phủ có thể thay đổi, cộng sản có thể tới, tiền có thể bị phân phối đi. Bạn không thể dựa vào tiền được; ngân hàng có thể bị phá sản.
Nhưng tri thức thì an ninh hơn: không chính phủ nào có thể lấy được nó đi, không thay đổi chính trị nào có thể lấy được nó đi, không ai có thể cướp được nó từ bạn, và bạn không thể bị phá sản dễ dàng thế. Tri thức dường như là an ninh hơn. Và bất kì ngày nào, nếu bạn có tri thức, bạn có thể tạo ra được tiền - không có cách khác. Tri thức có thể đem tới tiền, không có cách khác. Tiền có thể không có khả năng đem tới tri thức, cho nên tri thức còn hơn cả của cải, một thứ của cải lớn lao hơn, mạnh mẽ hơn - và sở hữu tinh tế ở bên trong. Bản ngã cảm thấy rất thoải mái: "Mình biết." Đó là lí do tại sao một trong những điều khó khăn nhất là thừa nhận rằng "Tôi không biết".
Khoảnh khắc bạn nhận ra rằng bạn không biết, bạn trở thành hồn nhiên, bạn trở thành sẵn có... bản ngã biến mất.
Câu hỏi này là từ Deva Geeta. Bà ấy là một sannyasin già. Và bà ấy nói, "Liệu có khả năng cho ai đó dốt nát như tôi mà đạt tới chứng ngộ được không?" Nó là khả năng duy nhất cho những người biết rằng họ là người dốt nát - đây là bắt đầu của tri thức thật, tia nắng mặt trời đầu tiên xuyên thấu vào bóng tối của linh hồn bạn. Bản ngã là bóng tối, và thừa nhận này rằng 'tôi không biết' là tia sáng đầu tiên của trí huệ.
Socrates tương truyền đã nói, "Khi tôi còn trẻ, tôi nghĩ tôi biết mọi thứ. Khi tôi trở nên trưởng thành hơn chút ít tôi bắt đầu cảm thấy rằng tôi chỉ biết vài điều thôi. Khi tôi trở nên già, một ngày nào đó tôi chợt nhận ra rằng tôi chẳng biết cái gì chút nào." Ngày đó ông ấy tuyên bố, "Dốt nát của tôi là hoàn toàn tối thượng và sâu sắc, và tôi không thấy cách nào tôi có thể thoát ra khỏi dốt nát của mình."
Bởi vì chân lí là bí ẩn và không thể biết được, và không thể bị phân tích và mổ xẻ. Không có cách nào để biết nó. Bạn có thể là chân lí, nhưng bạn không thể biết được nó - bởi vì để biết, cần có khoảng cách. Với tri thức, chân lí phải có đó như một đối thể, bạn phải có đó bên trong như một chủ thể, và ở giữa hai điều này thì tri thức xảy ra. Tri thức phân chia thế giới thành ba phần, ba ngôi: người biết, cái được biết, và tri thức.
Chân lí là một. Không có gì để biết, không có ai để biết nó, cho nên làm sao tri thức là có thể được? Chân lí hiện hữu, sự tồn tại hiện hữu, cuộc sống hiện hữu, và chúng ta là một phần của nó.
Socrates nói, "Bây giờ tôi có thể nói tôi không biết gì cả." Cái ngày ông ấy tuyên bố điều này, nhà tiên tri ở Delphi nói với một số người, "Socrates là con người vĩ đại nhất của trí huệ trên trái đất này." Những người đó quay lại và nói với Socrates, "Thầy được ân huệ thế! Nhà tiên tri của đền Delphi đã tuyên bố thầy là người trí huệ vĩ đại nhất thế giới."
Socrates cười và nói, "Quá muộn bây giờ rồi. Ta biết rằng ta không biết gì cả. Phải có sai lầm gì đó rồi. Ít nhất thì lần này nhà tiên tri đã đoán nhầm. Các ông quay lại và bảo nhà tiên tri rằng bản thân Socrates từ chối điều đó."
Những người này rất phân vân bởi vì họ cứ tưởng họ đem tới tin tốt lành. Còn có thể có cái gì hơn nữa được? Khi các thần tuyên bố Socrates là người trí huệ nhất thế giới, bạn còn có thể trông đợi cái gì hơn nữa được? Và đây là điều ngu xuẩn này; ông ấy nói, "Tôi chẳng biết gì cả. Và lại quá trễ rồi. Và các ông đi và nói rằng cái gì đó đã đi sai; nhà tiên tri không đúng."
Những người đó, bị lấn cấn, lẫn lộn, quay lại. Họ nói với thần ngôi đền, "Socrates phủ nhận; ông ấy nói, 'Tôi tuyệt đối dốt nát.'" Và có tiếng cười lớn trong đền, và Thượng đế nói, "Đó là lí do tại sao ta đã tuyên bố ông ấy là người vĩ đại nhất và trí huệ nhất trên thế giới. Đó là lí do tại sao! Đã không có sai lầm nào cả."
Nếu bạn có thể hiểu điều này, thế thì dốt nát trở thành hồn nhiên. Đừng gọi nó là dốt nát; dốt nát có liên tưởng sai. Dốt nát ngụ ý rằng bạn vẫn nghĩ dưới dạng tri thức, bạn vẫn nghĩ rằng cái gì đó đang bị bỏ lỡ, cái gì đó đang thiếu. Vứt từ đó đi. Từ đó là không đúng.
Hồn nhiên, hồn nhiên như trẻ con... Và tôi biết Deva Geeta là một bà già như trẻ con.
"Liệu có khả năng cho người dốt nát như tôi đạt tới chứng ngộ mà không phải mất nhiều thời gian để nghiên cứu tất cả những cái có giữa trời và đất không?"
Không có nhu cầu nghiên cứu cái gì cả. Mọi thứ đều được hiển lộ; bạn chỉ cần đôi mắt trong trẻo. Nghiên cứu là không cần thiết. Bạn đừng đi vào sách vở, bạn chỉ phải thấy mầu xanh của cây, mùi hương thơm của hoa, nghe tiếng chim chóc, và âm thanh của nước chảy róc rách, và những đám mây đẹp trôi nổi trên bầu trời...
Mọi thứ đều hoàn hảo thế và mọi thứ đều cực kì đẹp thế. Bạn chỉ tiếp cận tới điện thờ vĩ đại này của Thượng đế. Thượng đế được cất giữ ở đây trong mọi tảng đá, và mọi tảng đá đều là buổi thuyết giảng, và ngài đang nở hoa trong mọi đoá hoa, và ngài đang thở trong mọi trái tim. Bạn chỉ tiếp cận tới sự hồn nhiên, và mọi nơi bạn tìm thì nó đều là nền tảng linh thiêng.
Mọi bụi cây đều bắt lửa với Thượng đế - bởi vì bản thân cuộc sống chính là điều Thượng đế tất cả là gì; tính toàn bộ, tính toàn thể của cuộc sống là điều Thượng đế tất cả là gì. Bạn chỉ tiếp cận với đôi mắt trong trẻo, tựa trẻ thơ, hồn nhiên. Điều đó sẽ có tác dụng. Vũ trụ là trường đại học của bạn. Còn Koran và Veda và Kinh Thánh và Gita đều không liên quan - cuốn sách vĩ đại nhất của Thượng đế là ở ngay trước bạn. Lật các trang của nó lên.
Khi bạn đi từ cây và bạn nhìn lên bầu trời bạn đã lật một trang rồi. Khi bạn nhìn vào mặt trời, bạn đã lật trang khác rồi. Khi bạn nhìn vào con mình, vào mắt nó, bạn đã lật một trang khác rồi.
Đây là điều Veda thực, Koran thực, Kinh Thánh thực là gì. Đây là cuốn sách, và tất cả các cuốn sách khác đều nhân tạo. Duy nhất vũ trụ này là cuốn sách mà Thượng đế đã viết lên bản thân mình.
Bạn có quan sát rằng tất cả các tôn giáo đều nói rằng sách của họ đều không do con người làm ra không? Người Hindu nói rằng Veda là apourusheya: không do con người làm ra mà do đích thân Thượng đế; và tiếng Phạn là ngôn ngữ thiêng liêng, không do con người làm ra. Bạn sẽ thấy cùng những tuyên bố ngu xuẩn thế ở mọi nơi. Người Mô ha mét giáo nói Koran đã được giáng xuống từ Thượng đế, và cũng thế với người Do Thái và người Ki tô giáo. Mọi người đều cố gắng tuyên bố rằng sách của mình là sách thiêng và không ai bận tâm tới cuốn sách thiêng thực.
Bạn cũng là một trang trong cuốn sách thiêng đó đấy! Và mọi thứ đều là một phần của nó. Những cuốn sách này là hay; tôi không nói rằng cái gì sai với chúng. Koran là hay - đọc nó, hát nó. Veda là hay, nhưng nhớ, đừng bị lạc vào trong chúng. Cứ để chúng là bậc đá hướng tới cuốn sách thực của cuộc sống.
Câu hỏi thứ hai:
Trong câu trả lời về giấc mơ mà tôi đã gửi cho thầy, thầy nói mơ là mơ, chẳng có nghĩa gì. Sao lại nói điều như vậy? Tôi không hiểu.
Tôi không chỉ nói rằng mơ là mơ; tôi nói rằng bất kì cái gì bạn thấy khi bạn nghĩ bạn đang thức cũng là mơ. Mơ mà bạn thấy bằng mắt nhắm trong giấc ngủ, và mơ mà bạn thấy bằng mắt mở trong cái gọi là trạng thái thức của bạn - cả hai đều là mơ và cả hai đều vô nghĩa.
Người hỏi này phải đã cảm thấy bị tổn thương - bởi vì bạn thậm chí còn muốn mơ của mình có nghĩa. Đó là cách các nhà phân tâm đã trở thành quan trọng thế. Mọi người đều ngu xuẩn: họ muốn mơ của họ cũng có nghĩa lớn lao. Cho dù cuộc sống của họ là vô nghĩa! và họ nghĩ mơ của họ là có nghĩa.
Bạn không có nghĩa gì ngay bây giờ - bạn không thể có được. Nghĩa nảy sinh chỉ khi bạn đang tuôn chảy, tuôn chảy với Thượng đế. Nghĩa là việc xảy ra giữa bạn và Thượng đế, khi bạn trong hoà điệu: không có nghĩa khác. Mọi nghĩa khác đều chỉ là ảo tưởng.
Cố hiểu điều tôi ngụ ý bởi 'nghĩa'. Nghĩa là khi có hài hoà giữa bạn và cái toàn thể. Khi có điệu vũ tinh tế và bạn đang nhịp bước cùng cái toàn thể, thì có nghĩa. Cuộc sống là dàn nhạc, và nếu bạn là người độc tấu sáo và bạn quên mất dàn nhạc, thế thì không có nghĩa. Thế thì bạn là mối phiền phức. Và bất kì cái gì bạn làm cũng không chỉ vô nghĩa, nó đi ngược lại nghĩa nữa. Tốt hơn cả là bạn dừng lại đi; vì trời, xin dừng lại đi! Khi bạn tuôn chảy với cái toàn thể và không có cá nhân còn lại, không bản ngã còn lại, thì có nghĩa. Có bản ngã thì không có nghĩa - bởi vì bản ngã là nốt nhạc chói tai, bản ngã là tiếng ồn, bản ngã là đối kháng lại cái toàn thể.
Bản ngã nói, "Tôi tách rời và tôi có định mệnh riêng của mình." Do đó, những người bản ngã bao giờ cũng cảm thấy sâu bên dưới rằng các kiếp sống của họ là vô nghĩa. Ở phương Tây bây giờ vô nghĩa đã trở thành gần như điều thông thường, lời nói sáo rỗng. Mọi người đều nói về vô nghĩa.
Mọi người đều giầu, mọi người được nuôi dưỡng tốt, họ có chỗ ở tốt. Thực tế, lần đầu tiên trong lịch sử vài nước đã đi tới điểm họ thoát khỏi nghèo khó, thoát khỏi tất cả những cái xấu bắt nguồn từ nghèo khó và tất cả những giới hạn mà nghèo khó đem lại. Họ được tự do. Nhưng khoảnh khắc họ trở nên tự do, họ bắt đầu cảm thấy vô nghĩa.
Người nghèo không nhận biết thế về vô nghĩa. Bởi vì họ phải kiếm tiền, có ý nghĩa chứ; họ phải cho con vào đại học, có ý nghĩa chứ; họ sắp làm ngôi nhà tốt ở đâu đó trong tương lai, họ đang tích luỹ, dần dần, chút ít tiền cho điều đó, họ sẽ có chiếc xe Ambassador một ngày nào đó; có ý nghĩa chứ.
Một ngày nào đó bỗng nhiên bạn có tất cả: cuộc sống tốt, quần áo tốt, thức ăn tốt. Thế thì nghĩa biến mất. Người nghèo bao giờ cũng dường như có hi vọng. Bạn bao giờ cũng có thể thấy một thoáng nhìn của hi vọng trong mắt người ăn xin. Nhưng mắt của người giầu trở thành mờ xỉn, đờ đẫn; hi vọng biến mất.
Mắt người giầu trở thành giống như sa mạc, không ốc đảo. Điều gì xảy ra? - tất cả những cái mà người đó đã từng nghĩ tới cho tới nay là có nghĩa đều đã trở thành vô nghĩa bởi vì người đó đã đạt tới nó. Và bỗng nhiên người đó trở nên nhận biết về cái trống rỗng toàn bộ bên trong.
Nghĩa xảy ra, nghĩa thực xảy ra chỉ khi bạn bắt đầu rơi vào hoà điệu với Thượng đế, hay với cái toàn thể, hay gọi nó là vũ trụ, hay bất kì cái gì cũng được. Khi bạn trong hoà điệu với cái toàn thể thì nảy sinh phúc lành lớn lao. Duyên dáng lớn lao bao quanh bạn. Trái tim bạn đầy tràn, được tràn đầy; mãn nguyện và an bình và thanh thản sâu sắc. Có ý nghĩa.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng mơ là mơ; đừng quá bị bận tâm bởi chúng. Và nếu bạn muốn có nghĩa nào đó, bạn có thể có nó. Bạn có thể tới nhà phân tâm theo Freud - ông ấy sẽ tìm ra nghĩa trong nó. Ông ấy có sẵn nghĩa nào đó được chuẩn bị cho bạn. Dù bạn đem tới bất kì giấc mơ gì, ông ấy sẽ áp nghĩa của ông ấy lên nó.
Bạn đã thấy Taj Mahal trong giấc mơ của mình chưa? - ông ấy sẽ nói đây là các cột trụ dương vật. Vậy là mơ mang tính dục. Tới người theo Adler mà xem: ông ta nói rằng tất cả mọi vấn đề đều nảy sinh từ phức cảm tự ti. Bạn đã thấy Taj Mahal chứ gì? Vậy là bạn muốn giống như Taj Mahal chứ gì - siêu đẳng, vĩ đại, duy nhất. Tới người theo Jung và ông ta sẽ thấy nghĩa khác nào đó.
Bạn có thể tới nhiều nhà trị liệu tâm lí và họ sẽ tìm ra cả đống nghĩa khác nhau. Và đây là cái gì đó mà không ai nhìn vào: toàn thể vấn đề là nghĩa không tới từ giấc mơ của bạn, nghĩa tới từ nhà phân tích.
Tôi đã nghe nói về Tổng thống Sukarno của Indonesia. Ông ấy hoàn toàn là một đàn ông dâm dục, hoàn toàn là một đàn ông đầy dục tình, hoàn toàn là người kiểu Freud. Ông ấy không bao giờ đi qua một bức tượng mà không khạc nhổ vào đít nó. Mọi cuộc đối thoại của ông ấy từ vấn đề quốc gia - và ông ấy có một chuyện lớn lao nhất trong nước mình - bao giờ cũng về các quí bà. Đây là mô tả của ông ấy về đàn bà:
Đàn bà hai mươi tuổi giống như lục địa châu Phi - hoang dã và không chế ngự được.
Đàn bà ba mươi tuổi giống như châu Á - đầy nhiệt huyết và nồng nàn.
Đàn bà bốn mươi tuổi giống như nước Mĩ - được huấn luyện quá kĩ và có kĩ thuật quá tốt.
Đàn bà năm mươi tuổi giống như châu Âu - suy tàn và tan rã.
Đàn bà sáu mươi tuổi giống như nước Australia - mọi người đều biết nó ở đâu, nhưng ai muốn đi tới đó?
Cho nên bạn có thể đi và đem giấc mơ mình tới một Sukarno nào đó; ông ta sẽ không tìm thấy gì ngoài dục. Ngay cả địa lí cũng trở thành biểu tượng chỉ về dục tính. Ngay cả châu Âu, châu Á, châu Phi, Australia - bỗng nhiên chúng có nghĩa hoàn toàn khác mà bạn chưa bao giờ nghe tới trước đây. Bạn phóng chiếu.
Tôi không phải là nhà phân tâm. Và mọi người đều cảm thấy rất thoải mái khi họ tới nhà phân tâm và nhà phân tâm nghe rất chăm chú vào điều vô nghĩa của bạn. Không ai nghe cái vô nghĩa của bạn một cách chăm chú thế. Và tại sao ai đó lại phải nghe? Nhà phân tâm phải nghe; bạn trả tiền cho điều đó, cho nên ông ta nghe rất chăm chú. Đó là thời gian của bạn mà! Thực tế, ai bận tâm? Ngay cả nhà phân tâm cũng chỉ giả vờ rằng ông ta đang nghe.
Tôi đã nghe một giai thoại về Freud.
Một người học việc trẻ làm việc cùng ông ấy. Anh ta còn trẻ và tràn đầy năng lượng, nhưng nghe những giấc mơ vô nghĩa của mọi người cả ngày lại là một việc mệt mỏi, chẳng hay ho gì và chán nữa. Nhưng anh ta bao giờ cũng ngạc nhiên khi nhìn Freud: ông này bao giờ cũng tràn đầy năng lượng, không bao giờ chán. Một hôm, vào lúc tối khi anh ta sắp về với thầy mình, anh ta đã hỏi Freud, "Thầy già rồi, có tuổi rồi, nhưng thầy lại không bao giờ mệt mỏi. Và từ sáng tới đêm thầy liên tục nghe những điều loạn thần kinh, vô nghĩa. Nhưng tôi thì phát mệt - sau hai hay ba bệnh nhân, tôi hoàn toàn kiệt sức."
Freud cười. Ông ấy nói, "Ai nghe?"
Bạn chỉ phải giả vờ rằng bạn đang nghe, bạn phải học thủ đoạn giả vờ rằng bạn đang nghe, rằng bạn quan tâm vô cùng. Bạn chỉ quan tâm vào tiền mà người đó sẽ trả.
Nhưng bệnh nhân cảm thấy rất thoải mái: "Đây là ai đó nghe chăm chú thế." Có ham muốn lớn trong con người rằng ai đó phải nghe những nỗi khổ của họ. Điều đó làm nhẹ gánh cho họ, và điều đó cho họ cảm giác rằng ai đó yêu, chăm sóc. Đó là lí do tại sao bạn cứ nói mãi về khổ. Mọi người đều cứ nói về khổ của mình, bệnh tật, thế này thế nọ, và muốn người khác thông cảm. Bạn cảm thấy bạn không một mình. Và khi bạn kể giấc mơ vô nghĩa và nhà phân tâm đem tới những lời giải thích hay, những lí thuyết vĩ đại, bỗng nhiên bạn cảm thấy bạn rất có nghĩa, bạn không phải là người thường - cứ nhìn vào những giấc mơ đẹp làm sao mà bạn có! Có thể bạn đã không tạo ra được bức tranh vĩ đại như Picasso và bạn đã không viết cuốn sách vĩ đại như Shakespeare, nhưng như vậy thì sao? Bạn đã mơ những giấc mơ hay tới mức ngay cả một Freud, một Jung, một Adler cũng đang diễn giải chúng - và họ thực sự diễn giải rất hay.
Nhưng toàn thể công việc này là vô nghĩa; mơ là mơ thôi.
Và toàn thể nỗ lực ở phương Đông đã khác toàn bộ: chúng ta chưa bao giờ bận tâm về nghĩa của mơ. Toàn thể nỗ lực của chúng ta là để làm cho bạn nhận biết để cho mơ biến mất.
Tôi đã kể đi kể lại cho bạn giai thoại Thiền nổi tiếng...
Một Thiền sư thức dậy buổi sáng và ông ấy thấy một đệ tử đi ngang qua. Ông ấy gọi đệ tử lại, "Lại đây! ta có một giấc mơ rất hay. Ông có muốn giải thích nó không?"
Anh ta nói, "Thầy đợi đã. Để tôi đem chậu nước tới đã. Thầy rửa mặt đã."
Thầy đợi. Đệ tử đem chậu nước tới và thầy rửa mặt. Vào lúc đó một đệ tử khác đi qua, và thầy gọi lại. Thầy nói, "Này, lại đây! Ta có giấc mơ hay. Ông có muốn giải thích nó không?"
Anh ta nói, "Xin thầy đợi đã. Thầy đã rửa mặt xong chưa? Tôi sẽ đem trà tới cho thầy." Và anh ta đem cốc trà tới.
Thầy rất sung sướng và thầy nói, "Nếu các ông đã cố gắng giải thích, ta sẽ tống các ông ra khỏi thiền viện!"
Đây mới là giải thích đúng: thầy có giấc mơ sao? - thầy rửa mặt đi, được kết thúc đi! Vẫn còn lơ mơ một chút ít sao? - xin uống cốc trà, nhưng thoát ra khỏi nó! Nó là giấc mơ! Cái gì có đó để mà giải thích?
Duy nhất một điều phải được ghi nhớ: rằng bạn đã mơ bởi vì bạn vô ý thức. Và bây giờ bạn đang cố gắng giải thích nó; dầu vậy bạn vẫn đang níu bám lấy nó. Nó đã xảy ra bởi vì bạn đã ngủ say.
Với vị phật mơ biến mất; chúng không xảy ra, chúng không thể xảy ra được - bởi vì ông ấy trở nên tỉnh táo tới mức ngay cả trong giấc ngủ một tầng nhận biết tinh tế vẫn còn lại. Ông ấy không bao giờ làm mất nhận biết của mình. Đó là điều Krishna ngụ ý khi ông ấy nói trong Gita, "Khi mọi người đều ngủ say, nhà yoga vẫn tỉnh thức."
Điều đó không ngụ ý rằng nhà yoga chỉ đứng trong phòng và vẫn còn thức - ông ấy sẽ phát điên mất! Ông ấy cũng ngủ chứ, nhưng ở đâu đó sâu bên dưới một nền cơ sở vẫn còn tỉnh táo, một ngọn đèn nhỏ vẫn liên tục cháy bên trong. Và trong ánh sáng đó, không mơ nào có thể thấm vào được.
Phật tương truyền đã nói rằng mơ giống như kẻ trộm: nếu nhà tối và không có đèn bên trong, kẻ trộm trở nên quan tâm tới ngôi nhà đó. Chúng tới gần hơn, chúng nhìn từ cửa sổ. Và nếu người chủ ngủ say, thế thì thậm chí còn tốt hơn. Và nếu lính gác không còn trách nhiệm hôm nay, thế thì hoàn hảo đấy - chúng vào.
Mơ giống như trộm. Khi lính gác ngồi ở cửa, kẻ trộm vẫn ở ngoài. Khi có đèn bên trong nhà và cửa sổ đầy ánh sáng, chúng không dám tới gần. Và khi chúng thấy rằng người chủ hoàn toàn thức và chuyển động, và có nói chuyện và ca hát và mọi người đi quanh, và những cái bóng, chúng không tới chút nào.
Mơ xảy ra bởi vì bạn không nhận biết trong giấc ngủ của mình. Và mơ tiếp tục xảy ra trong trạng thái thức của bạn nữa, bởi vì thế nữa nhận biết của bạn cũng chỉ làng nhàng thôi, rất hờ hững, chẳng có gì nhiều.
Cho nên nghĩ về mơ chỉ như biểu tượng theo nghĩa này: chúng chứng tỏ rằng bạn còn chưa trở nên đủ tỉnh táo - có vậy thôi. Đó là nghĩa khi tôi nói điều đó cho bạn.
Người hỏi đã viết một bức thư dài liên quan tới mơ. Đây là thông điệp của tôi: rằng mơ là mơ, chẳng có nghĩa gì cả; đừng quá bị bận tâm bởi chúng. Duy nhất một điều là quan trọng: khi mơ xảy ra trong giấc ngủ của bạn thì bạn mất tất cả ý thức của mình. Ban ngày bạn cũng không rất ý thức đâu; cho nên trở nên ý thức hơn đi. Đừng chú ý nhiều tới mơ, bằng không nó có thể trở thành trò chơi rất nguy hiểm.
Bạn bắt đầu chơi với mơ - nghĩa của chúng, biểu tượng của chúng, bí ẩn của chúng, và bạn cứ đi vào mãi - hết tầng nọ tới tầng kia, và bạn sẽ bị lạc!
Mulla Nasruddin đang bước đi về thị trấn một tối thì anh ta bỗng nhiên bắt gặp một đống cứt bò trên đường. Anh ta nghiêng người qua bên và nhìn nó một cách chăm chú.
"Nhìn nó xem sao," anh ta tự nhủ mình.
Anh ta nghiêng người gần hơn và ngửi, "Ngửi nó xem sao."
Anh ta thận trọng dí ngón tay vào nó, rồi nếm nó, "Nếm nó xem sao. Mình chắc chắn mừng là mình đã không dẫm vào nó!"
Cẩn thận với phân tích!
Câu hỏi thứ ba:
Người quan sát không phải là cái được quan sát - thế thì cái được quan sát xuất hiện từ đâu? Và phóng chiếu liên tục của chúng ta là gì? Nó tất cả có phải là ảo tưởng không? Và dầu vậy, bản chất của ảo tưởng không thể đem ánh sáng lên đấng sáng tạo-người quan sát của nó sao?
Từ maya phải được hiểu. Trong tiếng Anh không có từ tương đương: 'ảo tưởng - illusion' là không đúng.
Ở phương Đông chúng ta gọi cái thực là cái vĩnh hằng, vô thời gian có đó; bao giờ cũng có, sẽ luôn luôn có, không bao giờ có lúc nào mà lại không có nó - vĩnh hằng này chúng ta gọi là cái thực, cái đúng. Đích xác đối lập với nó là cái không thực, cái không đúng - cái chưa bao giờ có, sẽ không bao giờ có. Giữa hai điều này là maya. Maya nghĩa là cái dường như có vậy mà lại không có. Nó ở ngay giữa cái thực và cái không thực. Nó là dối trá nhưng nó có vẻ như chân lí. Nó là dối trá được trang điểm, và rất thuyết phục. Khi nó có đó nó dường như tuyệt đối đúng; bạn biết điều đó.
Trong đêm khi bạn mơ bạn chưa bao giờ hoài nghi. Ngay cả người rất đa nghi, người vô thần, cũng không hoài nghi. Trong mơ không ai nghi ngờ cả. Ngay cả những người hoài nghi lớn lao, người hoài nghi mọi thứ, cũng không hoài nghi mơ; khi mơ có đó nó dường như tuyệt đối đúng. Điều ngớ ngẩn cũng có vẻ đúng.
Khi mơ có đó nó là thực. Nó thực tới mức ngay cả điều ngớ ngẩn cũng không làm cho bạn nghi ngờ. Vào buổi sáng khi bạn mở mắt ra, bỗng nhiên nó là không thực. Bây giờ nó đã từ đâu tới? - nó đã tới từ vô nhận biết riêng của bạn. Nó là phóng chiếu của bạn. Nó đã không có đó bên ngoài bạn, nó có bên trong bạn; nó là trò chơi của bạn. Và khi bạn đã bị mất hút trong nó thế thì nó trở thành thực. Vào buổi sáng bạn thức dậy, phóng chiếu bị rút lại; bạn có thể thấy bây giờ nó là không thật.
Bây giờ phải gọi mơ là gì đây? Gọi nó là thực sao? Nó không thực bởi vì có lúc nó đã không có, và bây giờ có lúc nó lại sẽ không có. Chúng ta có nên gọi nó là không thực không? Nhưng thế thì nó đã có đó ở giữa. Vào buổi tối nó đã không có, đến sáng nó lại không có, nhưng trong đêm nó có đó. Vậy làm sao bạn có thể gọi nó là không thực được? Cho nên ở phương Đông chúng ta đã phát minh ra một thuật ngữ mới. Chúng ta gọi nó là maya: cái không thật nhưng lại dường như là thật bởi vì vô ý thức của chúng ta.
Maya gần giống như ảo thuật - cái gì đó không có những có thể được làm để dường như là nó có. Nó chỉ ra điều gì đó về bạn. Giấc mơ chỉ ra điều gì đó về người mơ.
Chẳng hạn, nếu bạn mơ về đàn bà, dục, và những thứ như vậy, điều đó đơn giản chỉ ra rằng trong cuộc sống đang thức của bạn, bạn phải đang cố gắng là vô dục, hay bạn phải đang cố gắng đi ra ngoài dục. Bạn phải kìm nén dâm dục. Cái bị kìm nén bật ra trong mơ của bạn, trở thành sự phóng chiếu. Nếu trong đêm bạn mơ bao giờ cũng về ăn và ăn tiệc và những thứ như vậy, điều đó đơn giản nghĩa là bạn phải đang cố gắng bỏ đói bản thân mình theo cách này cách nọ. Bạn phải nhịn ăn, hay bạn có thể là kẻ điên vì ăn. Bạn phải làm cái gì đó sai; thân thể bạn không được thoả mãn. Việc không thoả mãn đó nảy sinh trong giấc mơ của bạn. Hay bạn đang kìm nén cái gì đó mà nó nảy sinh trong giấc mơ của bạn. Nó đơn giản chỉ ra rằng cuộc sống của bạn không đi theo nhịp điệu. Có cái gì đó quấy rối nhịp điệu của nó. Quấy rối đó nảy sinh trong mơ, trở thành phóng chiếu.
Nó chỉ ra cái gì đó về người đang mơ.
"Người quan sát không phải là cái được quan sát - thế thì cái được quan sát bắt nguồn từ đâu?" Nó bắt nguồn từ người quan sát - nhưng người quan sát ngủ say, vẫn chưa thực sự trở thành người quan sát, chỉ mới là người quan sát tiềm năng, chưa thực tại. Từ việc ngủ đó, từ giấc ngủ, từ trạng thái ngẩn ngơ đó, nảy sinh đủ mọi loại ảo tưởng: bạn tạo ra chúng.
"Và vậy mà bản tính của ảo tưởng có thể đem ánh sáng lên đấng sáng tạo-người quan sát của nó không?" Có chứ, nó đem tới ánh sáng nào đó.
Để tôi kể cho bạn một câu chuyện rất nổi tiếng về Idries Shah. Nghe nó thật chăm chú vào.
Một thầy tu đạo Hồi yên tĩnh thường hay tham dự các bữa ăn hàng tuần do một người hào phóng và có học thức chu cấp. Giới này được biết tới như là 'hội đồng những người có văn hoá'. Thầy tu này chưa bao giờ tham gia vào cuộc đối thoại mà chỉ đơn giản tới, đơn giản bắt tay tất cả mọi người có mặt, tự ngồi vào một góc, và ăn thức ăn được chu cấp.
Khi cuộc họp mặt chấm dứt ông ấy đứng dậy, nói vài lời tạm biệt và cám ơn, rồi đi đường mình. Không ai biết gì về ông ấy cả, mặc dầu khi ông ấy lần đầu tiên xuất hiện ở đó thì đã có tin đồn rằng ông ấy là một thánh nhân vĩ đại. Trong một thời gian dài các vị khách khác cứ tưởng rằng ông ấy thực sự phải là một con người của thiêng liêng và tri thức và họ trông đợi lúc ông ấy có thể truyền đạt lại một phần trí huệ nào đó của ông ấy. Một số người trong họ thậm chí còn khoe khoang về việc tham dự của ông ấy vào các cuộc gặp gỡ với bạn bè họ, bóng gió nói tới sự độc đáo mà họ cảm thấy trong sự hiện diện của ông ấy.
Tuy nhiên, dần dần bởi vì họ có thể cảm thấy chẳng có mối quan hệ gì với người này được phát triển, các vị khách nghi ngờ rằng ông ấy là kẻ bắt chước, có lẽ là kẻ lừa gạt. Nhiều người trong số họ cảm thấy không thoải mái trong sự hiện diện của ông ấy. Ông ấy dường như chẳng làm gì để hoà hợp bản thân mình với bầu không khí, và thậm chí còn không đóng góp được câu nói nào cho cuộc nói chuyện về chứng ngộ, điều họ đã lấy để đánh giá như phần cần thiết của chính cuộc sống của họ.
Vài người, mặt khác, đã trở nên không nhận biết rằng ông ấy đã ở đó, vì ông ấy chẳng lôi kéo sự chú ý về bản thân ông ấy.
Một hôm thầy tu nói. Ông ấy nói, "Tôi mời tất cả các ông tới thăm tu viện của tôi. Đêm mai các ông sẽ ăn cùng tôi."
Lời mời bất ngờ này gây ra sự thay đổi trong ý kiến của toàn thể hội đồng. Một số người cho rằng thầy tu này, người ăn mặc rất xuềnh xoàng, phải là người điên, và chắc chắn chẳng chu cấp cho họ được cái gì cả. Những người khác coi hành vi quá khứ của ông ấy đã là phép thử. Cuối cùng, họ tự nói với mình, ông ấy sẽ thưởng cho sự kiên nhẫn của họ trong việc chịu đựng với nhóm buồn bã thế. Dầu vậy những người khác nói với nhau. "Cẩn thận, vì ông ấy rất có thể đang nhử chúng ta vào quyền lực của ông ấy."
Tò mò đưa tất cả họ, kể cả ông chủ, tới chấp nhận lòng hiếu khách này. Tối hôm sau thầy tu này đưa họ về ngôi nhà của một tu viện ẩn kín với kích thước và vẻ nguy nga tới mức họ bị choáng váng. Toà nhà đầy các đệ tử đang thực hiện đủ mọi loại tập luyện và nhiệm vụ. Các vị khách đi qua những phòng thiền đầy các hiền nhân có vẻ ưu tú, họ đứng dậy tỏ ý kính trọng và cúi chào khi thầy tu đi tới. Bữa tiệc mà họ được mời vượt xa tất cả mọi khả năng mô tả. Các vị khách bị tràn ngập ấn tượng. Tất cả đều cầu xin ông ấy chấp nhận họ làm đệ tử ngay tức khắc. Nhưng thầy tu chỉ nói với tất cả mọi lời cầu khẩn của họ, "Đợi cho tới sáng."
Buổi sáng tới và các vị khách, thay vì thức dậy trong những chiếc giường lụa xa hoa mà họ đã được dẫn tới đêm hôm trước, được che phủ bằng những áo choàng lộng lẫy, lại thấy mình nằm rải rác trên đất cứng và trơ trụi bên trong các biên giới bằng đá của những đống hoang tàn xấu xí khổng lồ trên cạnh dốc núi cằn cỗi. Chẳng có dấu hiệu nào của ông thầy tu, của những kiểu trang trí, thư viện, đài phun nước, thảm.
"Kẻ xấu xa khét tiếng đã lừa chúng ta bằng bề ngoài giả dối của ma thuật!" khách khứa kêu lên. Họ an ủi lẫn nhau và chúc mừng nhau bởi những chịu đựng của họ và bởi ít nhất cũng thấy qua người này, niềm say mê hiển nhiên bị mòn mỏi đi trước khi người đó có thể đạt tới mục đích ác của mình, dù điều đó có thể là bất kì cái gì.
Nhiều người trong số họ qui cho việc trốn khỏi sự thuần khiết tâm trí của riêng họ. Nhưng điều họ đã không biết là ở chỗ bằng cùng phương tiện mà ông ấy đã dùng để làm trò ảo thuật về kinh nghiệm về tu viện, ông thầy tu đã làm cho họ tin rằng họ đã bị bỏ lại trong đống hoang tàn. Họ thực tế đã không ở trong cung điện.
Bây giờ ông ấy mới đi tới nhóm này cứ dường như chẳng từ đâu cả và nói, "Chúng ta sẽ trở về tu viện." Ông ấy vẫy tay và tất cả lại thấy mình trở lại các phòng cung điện. Bây giờ họ lại ăn năn, vì họ lập tức tự thuyết phục mình đống hoang tàn kia đã là phép thử và rằng tu viện này mới là thực tại đúng. Một số người thì thào, "Cũng tốt là ông ấy đã không nghe thấy những lời ca thán của chúng ta. Ngay cả ông ấy chỉ dạy chúng ta về nghệ thuật kì lạ này thì điều đó cũng đáng giá rồi."
Nhưng ông thầy tu lại vẫy tay lần nữa và họ lại thấy mình ở cạnh bàn ăn công cộng, mà thực tế họ chưa bao giờ rời khỏi.
Ông thầy tu đang ngồi trong cái góc thường lệ của mình ăn cơm có gia vị như thường, chẳng nói gì cả. Và thế rồi quan sát ông ta một cách không thoải mái tất cả mọi người đều nghe giọng nói của ông ấy cứ dường như bên trong tâm khảm của mình, mặc dù môi ông ấy chẳng chuyển động gì.
Ông ấy nói, "Trong khi tham lam của các ông làm cho các ông không thể nào biết được việc tự dối mình với thực tại, thì chẳng có gì thực mà một thầy tu có thể biểu lộ cho các ông - chỉ mỗi lừa dối. Những người lấy thức ăn là việc tự dối mình và tưởng tượng thì có thể được nuôi dưỡng chỉ bằng lừa dối và tưởng tượng."
Bây giờ tất cả mọi điều bạn đi tới kinh nghiệm trong cuộc sống đều không là gì ngoài ham muốn riêng của bạn. Bởi vì bạn muốn kinh nghiệm nó, tâm trí bạn làm ảo thuật. Tâm trí là nhà ảo thuật lớn. Nó rất thủ đoạn, nó là việc biểu diễn ảo thuật lớn nhất... tâm trí riêng của bạn đấy. Nếu bạn muốn làm ảo thuật về cái gì đó bạn sẽ phải tự thuyết phục mình. Ngay cả người đàn bà xấu cũng có thể trở thành đẹp nếu bạn đầy những ham muốn.
Mulla Nasruddin bao giờ cũng đi nghỉ an dưỡng trên núi. Thỉnh thoảng anh ấy đi ba tuần nhưng quay về trong mười ngày; đôi khi anh đi bốn tuần và anh ấy sẽ quay trở về trong vòng hai tuần.
Tôi hỏi anh ấy, "Có chuyện gì vậy? Anh đã định đi sáu tuần và anh quay trở về trong vòng mười ngày."
Anh ấy nói, "Có cách để quyết định tôi nên ở đó bao lâu."
Tôi nói, "Cho tôi biết cách của anh là thế nào? Làm sao anh quyết định?"
Anh ấy nói, "Tôi đã thuê một người đàn bà rất xấu để chăm nom ngôi nhà của tôi ở đó trong khu an dưỡng. Cô ấy xấu thế trông phát buồn nôn, lợm giọng. Khi tôi đi lên khu an dưỡng, đây là cách của tôi để đánh giá tôi nên ở lại bao lâu: khi mà dần dần tôi bắt đầu thấy cái đẹp trong người đàn bà đó, tôi trốn đi."
Hoạt động dục cứ tích luỹ lại, ham muốn của bạn để có người đàn bà cứ tích luỹ lại. Thế rồi tới một điểm mà bạn không thấy cái đang đó; bạn thấy cái bạn muốn thấy. Thế thì thậm chí người đàn bà xấu, phát buồn nôn, lợm giọng, cũng có thể trở thành người đàn bà đẹp nhất, có thể trở thành một Cleopatra.
Chính ham muốn của bạn tạo ra thủ đoạn này. Bạn có thể tự ép buộc mình tin vào bất kì cái gì dù nó là cái gì.
Tâm trí này là căn nguyên của maya, của tất cả những ảo tưởng mà bạn đã sống qua. Một khi bạn bắt đầu trở nên nhận biết về tâm trí, nhận biết là khác biệt toàn bộ với tâm trí. Thế thì người quan sát nảy sinh, thế thì bạn trở thành nhận biết.
Khi bạn trở thành nhận biết và bạn có thể thấy trò chơi của tâm trí đã từng chơi với bạn trong bao nhiêu kiếp, bỗng nhiên bạn bắt đầu cười vào toàn thể cái lố bịch của nó.
Điều đó tuỳ vào bạn. Bạn hôn môi người đàn bà, bạn nghĩ điều đó là rất đẹp - điều đó tuỳ vào bạn thôi. Có những bộ lạc trên thế giới, bộ lạc nguyên thuỷ, chưa bao giờ hôn cả. Và khi họ đi tới biết rằng mọi người hôn nhau, họ cười. Họ không thể tin được vào điều đó.
Ở Thái Lan có bộ lạc nguyên thuỷ chưa bao giờ hôn cả, trong suốt nhiều thế kỉ - bởi vì họ nói đặt môi vào môi người khác xấu thế và chỉ trao đổi nước bọt, điều đó xấu thế! Nếu họ mà đi tới biết về cái hôn của người Pháp họ sẽ cười đến chết! Lưỡi người này đi vào lưỡi người khác! Nhưng cứ hỏi người Pháp mà xem...
Thực tế, người Pháp nghĩ chỉ họ mới biết cách hôn thôi; chẳng ai khác biết cả. Đó chỉ là ước định. Cùng những người này, bộ lạc nguyên thuỷ này mà chưa bao giờ hôn nhau, thì lại cọ mũi vào nhau - và họ thích điều đó lắm. Đó là cái hôn của họ đấy. Bây giờ, bạn sẽ cảm thấy chút ít lúng túng nếu ai đó tới và bắt đầu cọ mũi họ vào mũi bạn. Bạn sẽ nói, "Anh làm gì thế? Anh có phát rồ hay cái gì không đấy? Môi có thể chạm, nhưng không phải mũi. Anh làm gì vậy?"
Trong tình yêu, bạn có thể hôn lẫn nhau. Có những bộ lạc có việc chào nhau là chạm lưỡi nhau; đó là việc chào của họ. Người phương tây đã từng cười về điều đó. Xem: từng bộ lạc đều xoay xở để tin theo cách riêng của họ. Nhiều bộ lạc châu Phi không thích đàn bà có tóc. Đàn bà phải trọc, thế thì họ trở thành đẹp. Bây giờ, bạn không thể nghĩ về đàn bà đẹp khi họ trọc. Họ trông như ni cô nhà Phật! Và người ta cảm thấy một ham muốn khẩn thiết để thoát khỏi họ. Sọ không có tóc trông xấu - nhưng điều đó nữa cũng là một ý tưởng. Môi mỏng được coi là đẹp, nhưng ở châu Phi họ lại thích môi dầy. Họ treo đồ nặng lên môi mình để làm cho chúng dầy hơn. Con gái treo đá lên môi mình để cho môi họ trở thành rất, rất dầy. Bạn sẽ nghĩ điều này là xấu, nhưng đây lại là đẹp với họ.
Cái gì là đẹp và cái gì là xấu? - chỉ là quan niệm tâm trí. Cho tới giờ chẳng ai có khả năng định nghĩa đẹp là gì, và chẳng ai sẽ có khả năng định nghĩa đẹp là gì - bởi vì đẹp không là gì ngoài ý tưởng của bạn về nó. Bạn tạo ra cái đẹp và bạn có thể tin vào nó; thế thì nó là đẹp. Bạn có thể tin vào xấu, và nó là xấu.
Quan sát, và bạn sẽ thấy rằng tâm trí bạn ước định ra bạn hướng theo những điều gì đó. Và thế rồi bạn bắt đầu tìm những điều đó. Và thế rồi bạn sẽ phóng chiếu vào trong mơ của mình, và dần dần ngay cả bạn đang thức, bạn cũng sẽ phóng chiếu.
Bây giờ đây là một phát kiến khoa học: rằng nếu bạn bị bỏ lại một mình, ở chỗ cô lập, trong ba tuần, bạn bắt đầu gợi lên đủ mọi loại mơ. Nếu bạn bị bỏ lại trong một hang động, mọi thứ được cung cấp cho bạn, nhưng bạn lại không được phép nói với ai cả - thức ăn được đưa tới qua một cái lỗ, nước được đưa tới qua một cái lỗ, và bạn có tiện nghi trong hang, bạn không thấy người nào trong ba tuần - ngay sau ngày thứ tư bạn bắt đầu nói to lên một chút rồi. Bình thường bạn nói bên trong mình, bạn cứ huyên thuyên. Nhưng sau bốn ngày ở biệt lập, môi bạn bắt đầu chuyển động. Sau tuần thứ nhất bạn bắt đầu nói rất to. Điều gì đang xảy ra?
Và đến tuần thứ hai bạn không chỉ nói, bạn bắt đầu trả lời nữa. Bạn nói hộ cho người khác, người không có mặt. Đến tuần thứ ba bạn gần như không còn lành mạnh nữa. Điều gì đang xảy ra? Điều gì xảy ra chỉ trong thời gian ba tuần? Bị bỏ một mình, tâm trí bị bỏ đói không có mọi thứ bên ngoài. Nó không thể còn lại mà không bận bịu, nó tạo ra bận rộn riêng của nó. Nó tìm ra một hình ảnh; nó bắt đầu nghĩ về người đàn bà đang ngồi bên cạnh bạn. Đầu tiên bạn sẽ cười - "Đây chỉ là vở kịch!" Đầu tiên bạn sẽ nói, "Mình biết rằng điều này chỉ là để tìm ra bận bịu." Nhưng dần dần bạn sẽ quên hoàn toàn, và người đàn bà sẽ trở thành thật. Bạn có thể bắt đầu làm tình với người đàn bà này, bạn có thể bắt đầu đánh nhau, nói chuyện, cãi vã. Bây giờ bạn đầy thức tỉnh, mắt mở, và mơ đã trở thành thực.
Nghiên cứu hiện đại về việc cô lập và điều xảy ra trong cô lập để lộ ra rất nhiều điều.
Đem thêm nhận biết vào tâm trí bạn đi, bằng không bạn bao giờ cũng trên bờ của việc phát điên, của việc trở thành điên. Không có mấy khác biệt giữa người điên và người lành. Lành mạnh và không lành mạnh chỉ khác nhau ở mức độ. Nếu bạn lành mạnh bạn có thể trở thành không lành mạnh vào bất kì khoảnh khắc nào. Ngân hàng phá sản, hay vợ bạn chết, hay con gái bạn trốn đi theo ai đó: chỉ một cú huých nhỏ và bạn phát điên.
Chứng điên đang sôi lên bên trong bạn; bạn đang đóng lại với nó. Trở nên nhận biết đi. Tâm trí chính là điều maya là gì - và tất cả những điều được tâm trí tạo ra đều là ảo tưởng, mang tính 'maya', ảo thuật. Tâm trí là nhà ảo thuật, và nếu bạn quan sát nhà ảo thuật này bạn sẽ ngạc nhiên. Cũng hay để mà quan sát những trò chơi và vở kịch mà nó tạo ra. Bằng quan sát nó, dần dần, nó lắng xuống. Một ngày nào đó tâm trí biến mất; có thân thể và có linh hồn, nhưng tâm trí biến mất.
Khi chỉ có thân thể và linh hồn còn tâm trí đã biến mất, bạn được chứng ngộ. Chứng ngộ là biến mất của nhà ảo thuật.
Câu hỏi thứ tư:
Tôi bao giờ cũng tìm dấu hiệu của chuyển động, những trạng thái năng lượng khác, biến cố viễn cảm, thậm chí tóc xám mới cũng có tác dụng. Chủ nghĩa duy vật tâm linh, vâng. Nhưng phải làm gì?
Tâm trí bao giờ cũng khao khát. Tâm trí không là gì ngoài việc khao khát, ham muốn cái gì đó xảy ra. Thỉnh thoảng đó là việc nghĩ về tiền, có nhiều tiền hơn, có ngôi nhà to hơn, có nhiều kính trọng hơn, có nhiều quyền lực chính trị hơn. Thế rồi bạn quay sang tâm linh; tâm trí vẫn còn như cũ. Bây giờ bạn muốn có quyền năng siêu linh hơn - viễn cảm, thấu thị, và đủ mọi loại vô nghĩa. Nhưng tâm trí vẫn còn như cũ - bạn muốn nhiều hơn. Và nếu bạn muốn nhiều hơn thì bạn sẽ vẫn còn ốm yếu.
Mạnh khoẻ là việc được mãn nguyện với khoảnh khắc này. Mạnh khoẻ là khi bạn toàn bộ trong khoảnh khắc này và hạnh phúc và thiêng liêng. Ốm yếu là nếu bạn đang đòi hỏi thêm.
Bạn có thể thay đổi đối thể; điều đó rất đơn giản. Đó là điều chúng ta vẫn tiếp tục làm. Trẻ nhỏ chơi với đồ chơi và chúng ta bảo chúng rằng đây là đồ chơi. Chúng có xe hơi nhỏ, xe hơi đồ chơi và tầu hoả đồ chơi và máy bay đồ chơi, tất nhiên. Nhưng bạn quan sát: khi con bạn có chiếc máy bay đồ chơi nó sẽ đi ra ngoài để khoe với mọi người xung quanh. Với những đứa trẻ khác nó nói, "Nhìn điều tớ có đây! Tớ có máy bay đấy!" Nó cảm thấy cực kì vĩ đại.
Bạn làm gì sau đó? - những đồ chơi đó biến mất; những đồ chơi lớn hơn xuất hiện. Bây giờ nếu bạn có chiếc xe hơi lớn, bạn sẽ muốn mọi người đều phải nhận biết về nó - bằng không thì phỏng có ích gì? Bây giờ nếu bạn có máy bay, bạn sẽ muốn quảng cáo về nó để cho mọi người đều biết rằng bạn có máy bay to thế.
Vẫn cùng trò chơi đó tiếp diễn thôi...
Bây giờ viễn cảm, hay thấu thị, hay quyền năng siêu linh: "Nếu bạn có thể làm điều này, tôi có thể làm còn hơn điều này. Tôi có thể đọc ý nghĩ của mọi người ở xa hàng nghìn dặm."
Có một câu chuyện Thiền. Cũng tốt cho bạn suy tư về nó.
Một người tới Thầy Lin Chi. Người này nói, "Thầy tôi là một người siêu linh vĩ đại. Ông nói gì về thầy của ông? Thầy của ông có thể làm được gì, làm phép màu nào?"
Lin Chi hỏi, "Thầy ông đã từng làm những phép màu nào?"
Đệ tử nói, "Một hôm thầy bảo tôi đi sang bờ sông bên kia, và tôi đứng đó với một mẩu giấy trong tay. Dòng sông này rất rộng, gần một dặm. Thầy đứng ở bờ bên kia và từ đó thầy bắt đầu viết bằng bút mực, và chữ viết hiện lên trên tờ giấy của tôi. Điều này đích thân tôi đã thấy, tôi là nhân chứng! Thầy của ông có thể làm được gì?"
Lin Chi nói, "Thầy ta làm những phép màu còn lớn điều này; điều này chưa là gì nhé. Khi thầy đói thì thầy ăn, và khi thầy buồn ngủ thì thầy đi ngủ."
Người này nói, "Ông đang nói cái gì thế? Ông gọi đây là phép màu sao? Mọi người đều đang làm điều điều đó!"
Lin Chi nói, "Không ai làm điều đó cả. Khi các ông ngủ các ông làm cả nghìn lẻ một điều. Khi các ông ăn các ông nghĩ tới cả nghìn lẻ một thứ. Khi thầy ta ngủ thầy đơn giản ngủ; không xoay người, không lật mình, thậm chí không mơ. Thầy đơn giản ngủ, thầy là toàn bộ trong giấc ngủ. Chỉ ngủ tồn tại vào khoảnh khắc đó, không gì khác. Và khi thầy đói thì thầy ăn. Thầy bao giờ cũng hiện hữu ở bất kì nơi đâu thầy đang ở."
Người đó đâm ra phân vân. Người đó nói, "Tôi chẳng thấy cái gì có trong điều này."
Lin Chi nói, "Nhưng đây là phép màu đấy, phép màu vĩ đại nhất đấy!"
Phỏng có ích gì mà viết từ bờ này sang bờ kia sông? Nó chỉ là ngu xuẩn. Chỉ người ngu mới quan tâm tới điều đó. Có ích gì nào?
Ai đó tới Ramakrishna và nói, "Thầy tôi là một người vĩ đại. Thầy có thể bước đi trên nước."
Ramakrishna nói, "Ngu xuẩn! Bởi vì ta có thể đơn giản đi tới người chở phà, và chỉ trả hai xu là anh ta đưa ta sang phía bên kia. Thầy anh phải mất bao nhiêu năm tu luyện để làm được phép màu này?"
Anh ta nói, "Tám năm."
Ông ấy nói, "Thế này thì quá lắm; giá trị của nó chỉ là hai xu thôi! Thầy anh là kẻ ngu. Đi và làm cho ông ấy nhận biết rằng ông không nên phí hoài cuộc đời mình. Điều đó có thể được thực hiện dễ dàng thế."
Vâng, đây là điều Ramakrishna đang nói: mọi phép màu đều là trò bản ngã. Con người thực của tôn giáo là phép màu, nhưng phép màu của người đó lại rất tinh tế.
Mulla Nasruddin tới tôi hôm nọ và anh ta nói, "Osho ơi, tôi chạy cả trăm thước trong sáu giây đấy!"
Tôi bảo anh ta, "Nasruddin, nhưng điều đó là không thể được; kỉ lục thế giới là hơn chín giây cơ."
Anh ta nói, "Điều đó đúng đấy, nhưng tôi biết lối tắt!"
Trước hết bạn trở nên quan tâm tới phép màu, và khi bạn không biết cách làm chúng thì bạn tìm lối tắt, bạn bắt đầu lừa dối. Thế thì bạn bắt đầu giở thủ đoạn ra với mọi người. Đó là điều các Sai Babas và những người khác đang làm. Họ đã tìm ra lối tắt - chỉ lừa dối, lừa gạt.
Nhưng có những người ngu, những người sẽ bị ấn tượng bởi những điều này. Thực tế chỉ người ngu mới có thể quan tâm và có thể bị ấn tượng bởi những điều này. Bằng không, phỏng có ích gì? Chẳng có gì trong nó cả.
Cuộc sống trong bản thân nó là phép màu, nhưng bản ngã không sẵn sàng chấp nhận điều đó. Nó muốn làm điều gì đó đặc biệt, điều gì đó mà không ai làm, điều gì đó phi thường.
Người chồng đang chải chuốt trước tấm gương trước khi đi thuyết trình bài nói quan trọng. Ông ta là một lãnh tụ chính trị.
"Anh tự hỏi không biết có bao nhiêu người vĩ đại trên thế giới?" anh ta đăm chiêu.
"Ít hơn một người so với số anh nghĩ," vợ ông ta nói.
Bao giờ cũng nghĩ rằng: bất kì khi nào ý tưởng nảy sinh về bao nhiêu người vĩ đại có đó trên thế giới, bao giờ cũng nhớ có ít hơn một. Ít nhất bạn cũng không nên chui vào cái trò vô nghĩa đó.
"Tôi bao giờ cũng tìm dấu hiệu của chuyển động, những trạng thái năng lượng khác, biến cố viễn cảm, thậm chí tóc xám mới cũng có tác dụng. Chủ nghĩa duy vật tâm linh, vâng. Nhưng phải làm gì?"
Nó chẳng phải chủ nghĩa tâm linh chẳng phải chủ nghĩa duy vật gì cả; nó đơn giản là ngu xuẩn. Vứt nó đi - bởi vì sống với ngu xuẩn chút nào cũng là nguy hiểm. Người ta có khuynh hướng quen với nó. Người ta có khuynh hướng làm nó thành thói quen.
Bất kì khi nào bạn cảm thấy rằng cái gì đó ngu xuẩn đang có đó, lập tức vứt nó đi, vứt nó đi như vứt chất độc. Đừng cứ chơi với nó, cho dù là một khoảnh khắc - bởi vì ngay cả một khoảnh khắc đó cũng có thể chứng tỏ là tai hoạ. Trong một khoảnh khắc đó cái ngu xuẩn có thể đi vào trong huyết quản bạn, có thể trở thành một phần của bạn, có thể bắt đầu ẩn nấp ở đâu đó.
Một điều phải được ghi nhớ như tiêu chuẩn: khoảnh khắc này là tất cả. Nếu bạn có thể sống trong khoảnh khắc này bạn sẽ có tất cả, và nếu bạn yêu cầu khoảnh khắc tiếp bạn sẽ có ốm yếu. Chỉ khoảnh khắc này là đủ.
Khao khát liên tục này về khoảnh khắc tiếp là bất mãn tinh vi: "Khoảnh khắc này không thoả đáng, cho nên có thể khoảnh khắp tiếp..." - hi vọng về khoảnh khắc tiếp.
Gợi ý của tôi là: sống khoảnh khắc này, dù nó là bất kì cái gì. Cho dù nó là đau đớn, sống nó đi - bởi vì đó là khoảnh khắc duy nhất có đó. Khoảnh khắc tiếp không bao giờ tới. Đừng chờ đợi nó. Tham vọng bao giờ cũng chờ đợi, bản ngã bao giờ cũng chờ đợi.
Mulla Nasruddin có lần ngồi trong số khán giả, nghe một người đáng thương nào đó nói đều đều cho tới khi không còn ai ngồi lại ngoài anh ta.
"Điều này thật khủng khiếp," diễn giả nói, nhìn vào hàng ghế trống rỗng. "Tôi thực sự không biết phải nói gì."
"Ông có thể nói lời chào tạm biệt," Mulla gào lên.
"Dẫu sao đi chăng nữa," diễn giả tiếp tục, "cũng tốt là ông còn ở lại."
"Tốt cái con khỉ!" Mulla càu nhàu. "Tôi là diễn giả tiếp!"
Đợi cho tới khoảnh khắc tiếp, chờ đợi, chán chường, nhưng chờ đợi cho tới khoảnh khắc tiếp; chờ đợi, kiệt sức, mệt mỏi, nhưng chờ đợi tới khoảnh khắc tiếp... Chỉ cái chết là tới. Khoảnh khắc tiếp là cái chết; cuộc sống là khoảnh khắc này.
Cho nên đừng cố gắng che giấu ham muốn cũ của bạn bằng cái tên mới: đừng gọi nó là viễn cảm, đừng gọi nó là thấu thị, đừng gọi nó là quyền năng tâm linh. Nó vẫn là một thôi; nó là bản ngã. Tâm linh chẳng biết gì tới quyền năng cả.
Tâm linh là an bình vô cùng. Tôi không nói nó là vô quyền năng - nhưng nó không biết gì tới quyền năng cả. Nó mang tính quyền năng vô cùng, nhưng không có ai để cảm thấy quyền năng trong nó. Bản ngã đã biến mất; bạn đã mất rồi, mất mãi mãi. Chỉ Thượng đế là có. Tất nhiên, Thượng đế là quyền năng.
Người Do Thái gọi Thượng đế là 'Elohim', nó bắt nguồn từ gốc 'el'. Gốc này là cùng với gốc mà từ của người Mô ha mét giáo 'Allah' bắt nguồn. Nó ngụ ý cội nguồn của quyền năng, người đầy quyền năng. Allah ngụ ý người quyền năng; Elohim ngụ ý người quyền năng.
Thượng đế là quyền năng. Khi bạn không có, ngài có đó. Nhưng không có ai để tuyên bố quyền năng cả. Người tâm linh là quyền năng, nhưng không có ai để tuyên bố điều đó. Khi người tuyên bố đi rồi, chỉ thế thì quyền năng mới tới; chúng chưa bao giờ gặp nhau.
Cho nên quên tất cả về những ham muốn tâm linh của bạn đi. Bạn đơn giản hiện hữu trong khoảnh khắc này - đó là điều tôi gọi là mang tính tâm linh.
Câu hỏi cuối cùng:
Osho ơi, trong khi thầy đang ngồi trong thính phòng Trang Tử kể chuyện về tôi, tôi lại đang ngồi trong nhà tắm Thổ nhĩ kì kể cho cho đệ tử của tôi về thầy. Mọi điều tôi phải làm là nhắc tới cái tên Osho, và mọi người đều bật lên tiếng cười náo động. Mulla Nasruddin.
Điều đó đúng đấy: Tôi không là gì cả nếu so với Mulla Nasruddin. Anh ấy là người kể chuyện vĩ đại. Anh ấy có thể xoay xở để kể những câu chuyện theo cách mà ngay cả nhắc tới cái tên cũng là đủ.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại.
Một nhà tù lớn và thân thiện nhận một cai ngục mới. Vào ngày cuối cùng ở nhiệm sở viên cai ngục cũ đi giới thiệu viên cai ngục mới với các tù nhân, và cũng làm bài diễn thuyết chia tay. Để kết thúc ông ta nói, "Một giai thoại nhỏ: số hai mươi tám." Đám đông tù nhân bật cười ha hả và vỗ tay tán thưởng, và viên cai ngục cũ bước xuống.
Sau đó, viên cai ngục mới người đã nghe toàn bộ nghi thức, hỏi viên cai ngục cũ về nhận xét cuối cùng của ông ấy, đặc biệt tại sao việc nhắc tới số hai mươi tám lại dường như làm cho vui vẻ thế.
"Thế này, ông thấy đấy," viên cai ngục cũ nói, "những người này đã ở đây lâu thế và đã nghe các chuyện cười của tôi nhiều lần tới mức thay vì kể toàn bộ câu chuyện ra thì tôi chỉ cần nói con số thôi. Những người này nhớ tới câu chuyện đó và cười tương ứng."
"Lạ thật," người mới nói. "Ông phải viết tất cả chúng ra cho tôi và tôi sẽ dùng một chuyện ngày mai trong bài nói khai mạc của tôi."
Ngày hôm sau người mới làm bài diễn văn đầu tiên của mình cho các tù nhân. Ông ta có chút ít bồn chồn và quyết định chuyện cười nói ra chắc là tốt.
"Để kết luận," ông ta nói, "một giai thoại nhỏ - số mười lăm."
Một im lặng lớn trùm lên đám đông. Viên cai ngục trở nên bồn chồn hơn, mỉm cười, và bước xuống khỏi diễn đàn. Sau đó ông ta hỏi viên cai ngục cũ, người vẫn ở lại để xem liệu mọi sự có trôi chảy không, "Có chuyện gì thế nhỉ? Hôm qua họ dường như thích chuyện của ông lắm. Hôm nay tôi đâm ra vô duyên quá."
"Tôi đoán," viên cai ngục cũ nói, "một số người có thể kể chuyện được, một số người không thể kể được."
Mulla Nasruddin thật tuyệt vời. Không có gì sánh được với anh ấy. Anh ấy có thể kể chuyện chỉ bằng việc nhắc tới cái tên. Cách thức, điệu bộ, toàn thể sự hiện diện của anh ấy có thể tạo ra tình huống vui vẻ lớn lao.
Người ta nói về Mulla Nasruddin rằng khi anh ấy còn là một học sinh thông minh ở trường, thầy hiệu trưởng nguyền rủa anh ấy - bởi vì bất kì khi nào anh ấy tới trường anh ấy đều bắt đầu kể chuyện, những chuyện ngắn. Và trẻ con sẽ cười khúc khích và cười ha hả, và điều đó gây phiền toái lắm. Tất cả các thầy đều bị làm phiền.
Một hôm thầy hiệu trưởng tới thấy điều đang diễn ra. Chính lúc đó: Mulla Nasruddin đang kể cho lớp điều gì đó - anh ta là người ngồi hàng cuối lớp - và cả lớp cười ầm ĩ.
Thầy hiệu trưởng nguyền rủa Mulla Nasruddin: "Để điều này là lời nguyền của tôi: bất kì khi nào tên em mà được nhắc tới, mọi người sẽ bắt đầu cười khi nghe tới tên em. Và nếu ai đó khác kể một câu chuyện về em, ít nhất phải có bẩy câu chuyện được kể ngay lập tức - ai đó sẽ kể câu chuyện khác, và ai đó khác sẽ kể câu chuyện khác nữa."
Và điều này đã tiếp tục; lời nguyền đã có tác dụng.
Một lần Mulla Nasruddin đi họp. Tất nhiên anh ấy hi vọng rằng họ sẽ đón tiếp anh ấy, nhưng cuộc họ đã bắt đầu rồi. Tamerlane vĩ đại đang ngồi trong ghế; ông ta là chủ tịch. Chẳng ai chú ý tới Mulla Nasruddin cả. Anh ấy ngồi ở chỗ mọi người để giầy, nhưng anh ấy bắt đầu kể chuyện cười. Dần dần, mọi người quay lại. Tất cả mọi người đều quay về phía Nasruddin, và họ quay lưng về Tamerlane.
Ông ta trở nên rất giận và ông ta nói, "Nasruddin, chấm dứt tất cả những điều này đi!"
Anh ấy nói, "Tôi không thể chấm dứt được - bởi vì bất kì chỗ nào tôi tới, tôi đều là chủ tịch. Chẳng khác biệt gì về nơi tôi đang ngồi."
Anh ấy có thể kể chuyện cười về tôi ở nhà tắm Thổ Nhĩ Kì. Một cách tự nhiên, điều đó phải là vậy thôi: tôi kính trọng anh ấy nhiều lắm; anh ấy phải kính trọng tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét